Các chuyên gia nổi tiếng thế giới đến từ Mỹ và Úc nhận định rằng, Việt Nam đã linh hoạt áp dụng các biện pháp hiệu quả để khống chế sự lây lan của COVID-19 và có những đóng góp to lớn cho ASEAN.
Năm
2020 và đầu năm 2021, Việt Nam đã khống chế được COVID-19 thông qua việc kết
hợp giữa đóng cửa biên giới và thực thi giãn cách xã hội. Gần đây, Việt Nam bỏ
chiến lược “không có COVID” để theo đuổi một cách tiếp cận linh hoạt hơn, như
chung sống an toàn với virus, vừa phòng chống dịch vừa phát triển kinh tế thông
qua tiêm vaccine cho tất cả người dân, cho người lớn, bao gồm công nhân, trước,
rồi trẻ em sau (dự kiến vào cuối tháng 10/2021), áp dụng mô hình “3 tại chỗ”
trước, rồi cho phép người lao động tự do di chuyển sau…
Dẫn
đầu khu vực trong việc kiềm chế COVID-19 lây lan
“Việt
Nam trải qua bốn đợt đại dịch COVID-19 từ đầu năm 2020 tới nay. Việt Nam đã
hành động nhanh chóng và dứt khoát khi đợt dịch đầu tiên bùng phát bằng cách áp
dụng tập quán toàn cầu tốt nhất về sức khỏe cộng đồng. Đó là đóng cửa biên
giới, xét nghiệm, truy vết tiếp xúc, cách ly, đóng cửa trường học, cấm tụ tập
đông người, yêu cầu đeo khẩu trang, thực hiện giãn cách xã hội… Những biện pháp
ban đầu này rất hiệu quả. Các đợt dịch tiếp theo đòi hỏi các biện pháp nghiêm
ngặt như phong tỏa, hạn chế đi lại”, GS Carlyle A. Thayer, Đại học New South
Wales, Học viện Quốc phòng Úc, nhận định.
Một
vấn đề mà Việt Nam phải đương đầu trong suốt giai đoạn này là kiếm được đủ
lượng vaccine để tiêm cho những thành viên dễ bị tổn thương trong xã hội cũng
như cho người lao động trong các ngành nghề thiết yếu, ông Thayer nói thêm.
Biến
chủng Delta xuất hiện tạo ra một tình trạng khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng vì
có tốc độ lây lan nhanh, tỷ lệ tử vong cao. “Các nhà lãnh đạo Việt Nam nhanh
chóng nhận ra rằng, chính sách “Zero COVID” không khả thi. Để đối phó, các nhà
lãnh đạo Việt Nam áp dụng chính sách hai hướng chủ động. Đó là kiếm đủ vaccine
để tiêm cho người dân để có thể trở lại cuộc sống bình thường và khôi phục các
hoạt động kinh tế”, GS Thayer nói.
Theo
vị chuyên gia Úc, về hướng thứ nhất, Việt Nam đã thực hiện chiến dịch ngoại
giao COVID rất thành công, thu về lượng vaccine cần thiết. Hiện nay, Việt Nam
đang tiếp nhận, làm chủ công nghệ và nâng cao năng lực để tự sản xuất vaccine
phòng COVID-19.
Về
hướng thứ hai, Việt Nam đã gia tăng nỗ lực tiêm chủng với trọng tâm là TP.HCM
và các tỉnh phía Nam. Đông đảo người dân đã được tiêm vaccine và các biện pháp
giãn cách xã hội nghiêm ngặt đã được dỡ bỏ, ông Thayer nói.
Trong
khi đó, ông James Borton, nhà nghiên cứu cấp cao tại Viện Chính sách đối ngoại,
Đại học Johns Hopkins (Mỹ), nhận định rõ ràng rằng, các làn sóng coronavirus ở
TPHCM đã gây nhiều thách thức cho chính phủ Việt Nam. Hệ quả của chiến lược
“Zero COVID” và các biện pháp nghiêm ngặt đã ảnh hưởng tới nền kinh tế, làm tê
liệt ngành du lịch. Vì vậy, Việt Nam đã chuyển sang chính sách sống chung an
toàn với virus thông qua một loạt đợt tái mở cửa chia theo từng giai đoạn.
Nhưng
năm 2021, chủng Delta bùng phát, tràn qua Việt Nam và các nước khác. Tuy vậy,
thế giới lại thấy các nỗ lực của Việt Nam trong việc đối phó cơn bão sức khỏe
cộng đồng. Đó là tổ chức các hội nghị trực tuyến, tụ hội ASEAN+3 (Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc). “Những hoạt động này được công nhân là những bước đi quan
trọng. Ngoài ra, phải ghi nhận công lao của Việt Nam trong việc áp dụng các
biện pháp đối phó tác động đối với những người yếu thế, bao gồm phụ nữ, trẻ em
và người cao tuổi”, học giả người Mỹ nói.
“Nhà
vô địch của thế giới” đang phát triển
Với
tư cách Chủ tịch ASEAN năm 2020, thành viên ASEAN năm 2021, Việt Nam đã đưa ra
nhiều sáng kiến, đề xuất, giải pháp phòng chống COVID-19. Đó là kích hoạt các
kênh trực tuyến để bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt giữa các nước ASEAN,
tăng cường điều phối đối thoại với các đối tác (như tổ chức các cuộc thảo luận
đặc biệt ASEAN+3), cung cấp trang thiết bị y tế, đồ bảo hộ cho nhiều nước ở các
châu lục khác nhau, thành lập kho dự trữ khu vực trang thiết bị y tế và sản phẩm
thiết yếu để đáp ứng các yêu cầu khẩn cấp… Những việc này đã giúp tăng cường sự
đoàn kết và hợp tác của ASEAN trong phòng, chống đại dịch và khôi phục kinh tế.
Theo
vị chuyên gia Úc, Việt Nam đã tiên phong sử dụng các hội nghị trực tuyến để tụ
họp các bộ trưởng chủ chốt, lãnh đạo chính phủ để thực hiện các chính sách dành
cho khu vực Đông Nam Á. Việt Nam cũng sử dụng mạng lưới ngoại giao rộng khắp
của mình để huy động sự ủng hộ của các nước lớn đối với ASEAN và các thành viên
của khối.
Là
thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã và đang chung tay
với các nước khác, các tổ chức lớn trong việc giải quyết các vấn đề khu vực và
toàn cầu, đặc biệt là những vấn đề liên quan tranh chấp trên Biển Đông và tình
hình Myanmar.
Tuy
nhiên, điều kiện đủ cho một ASEAN thành công nằm ở sự ổn định chính trị của các
thành viên khác của khối và cam kết của họ đối với tính trung tâm của ASEAN, vị
chuyên gia Úc lưu ý. Theo ông, sự bất ổn định về chính trị sẽ mở cửa cho các
siêu cường bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của từng quốc gia thành
viên của ASEAN. Thực tế, sự bất ổn định chính trị ở Myanmar có thể ảnh hưởng
các nước láng giềng thông qua dòng người tị nạn và sự bất đồng giữa Trung Quốc,
Nga và Mỹ.
Ông
Borton cũng có quan điểm tương tự. Theo vị học giả Mỹ, các thành viên ASEAN
thực sự có nhiều mối quan tâm, lợi ích chung hơn những chuyên gia chính sách
từng đề cập trong những năm gần đây. Có bằng chứng cho thấy có một chính sách
chung liên quan lợi ích ở Biển Đông./.
Đăng nhận xét