Thời gian gần đây ở nhiều địa phương liên tiếp xảy ra các vụ tước đoạt tính mạng của trẻ em, đặc biệt là các vụ bố, mẹ hoặc cả bố lẫn mẹ tự tử và ép con chết theo.
Điều
đáng lo ngại là bên cạnh luồng dư luận lên án, phẫn nộ đối với các trường hợp
đấng sinh thành tự cho mình quyền mang theo các con sang “thế giới bên kia” thì
vẫn có tiếng nói xót thương, bào chữa với lý lẽ “người ta cùng quẫn quá nên mới
thế”.
Dưới
góc độ pháp luật, quyền được sống là quyền tối cao của tất cả mọi người, trong
đó có trẻ em. Người nào tước đi sinh mạng của trẻ em, dù đó là bố, là mẹ, dù là
với lý do gì, đều phạm tội sát nhân và người đó nếu không còn sống để chịu sự
trừng phạt của pháp luật thì cũng phải hứng chịu sự lên án của dư luận.
Quyền
sống đứng đầu 24 quyền trẻ em ở Việt Nam
Trẻ
em là những người chưa trưởng thành, còn non nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị
tổn thương, cần được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục đặc biệt, kể cả sự bảo vệ
thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời.
Khái
niệm trẻ em được các quốc gia sử dụng thống nhất và đã được đề cập trong Tuyên
ngôn Geneva năm 1924, Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1959,
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1968, Công ước quốc tế về quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966, Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989, Công ước 138 của
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về tuổi tối thiểu làm việc năm 1976.
Công
ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 quy định: “Trẻ em là người dưới
18 tuổi”. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 của Việt Nam quy
định: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Luật Trẻ em năm 2016 có quy
định rộng hơn: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” (không kể công dân Việt Nam hay
người nước ngoài, người không có quốc tịch).
Việt
Nam đã phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 và Công ước có
hiệu lực tại nước ta từ ngày 20/12/1990. Công ước có 54 điều quy định về các
quyền của trẻ em theo bốn nhóm là quyền được sống còn, quyền được bảo vệ; quyền
được phát triển và quyền được tham gia.
Quyền
sống là quyền cơ bản thiêng liêng của con người, trong đó có trẻ em, được ghi
nhận tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau mà cơ bản nhất là Hiến pháp năm
2013: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ.
Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” (Điều 19).
Luật
Trẻ em năm 2016 đưa ra những quy định rất chi tiết về các quyền của trẻ em,
trong đó có quyền được khai sinh và có quốc tịch; quyền được chăm sóc sức khỏe;
quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng; quyền được giáo dục, học tập và phát triển
năng khiếu; quyền vui chơi, giải trí; quyền giữ gìn, phát huy bản sắc; quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền về tài sản; quyền bí mật đời sống riêng tư;
quyền được sống chung với cha, mẹ; quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình
dục; quyền được bảo vệ để không bị bóc lột sức lao động; quyền được bảo đảm an
sinh xã hội; quyền được tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động xã hội; quyền
được bày tỏ ý kiến và hội họp…
Trên
hết, trước hết trong 24 quyền của trẻ em ở Việt Nam là quyền được sống. Bị tước
đoạt quyền này cũng đồng nghĩa là các quyền sau đó trở nên vô nghĩa. Điều 12
của Luật Trẻ em năm 2016 quy định “Trẻ em có quyền được bảo vệ tính mạng, được
bảo đảm tốt nhất các điều kiện sống và phát triển”.
Hệ
thống pháp luật hiện hành ở nước ta đã có nhiều quy định nghiêm cấm các hành vi
vi phạm quyền con người, trong đó có quyền trẻ em và quy định các biện pháp chế
tài đối với các hành vi vi phạm đó.
Điều
6 của Luật Trẻ em năm 2016 quy định 15 nhóm hành vi bị nghiêm cấm nhằm bảo đảm
cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh. Đây là 15 nhóm hành
vi vi phạm quyền trẻ em đặc thù đối với việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
trẻ em. Đứng đầu trong nhóm hành vi bị nghiêm cấm là sự tước đoạt quyền sống
của trẻ em.
Điều
123 của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: Người nào giết
người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20
năm, tù chung thân hoặc tử hình: giết người dưới 16 tuổi; giết phụ nữ mà biết
là có thai...
Pháp
luật không phân biệt thủ phạm có phải là bố, mẹ của người dưới 16 tuổi hay
không, cũng không phân biệt người đó là chồng của người phụ nữ mang thai hay
không.
Điều
124 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: “1. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư
tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ
ra trong 07 ngày tuổi, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Người
mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách
quan đặc biệt mà vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi dẫn đến hậu quả
đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc bị phạt tù từ
03 tháng đến 02 năm”.
Pháp
luật đã có những quy định rất rõ ràng về các quyền của trẻ em, trong đó quyền
được sống là thiêng liêng nhất, cũng như đưa ra các hình phạt nghiêm khắc đối
với hành vi vi phạm. Quan niệm xã hội cũng cần đồng hành với pháp luật để góp
phần hạn chế đến mức thấp nhất các vụ trẻ em bị đấng sinh thành dùng “quyền”
làm bố, làm mẹ tước đoạt sinh mạng, con cái bị coi như tài sản riêng, có thể
“dùng” mà cũng có thể “bỏ”.
TTXVN
Đăng nhận xét