Tháng 5/2022 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã đưa ra “Báo cáo tình hình nhân quyền thế giới”, trong đó có những thông tin sai lệch về vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam với các góc nhìn phiến diện, dẫn chứng thiếu khách quan. Trong đó, báo cáo nói đến tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng của người dân, đồng thời đưa ra các chỉ trích chính quyền Việt Nam phân biệt đối xử người dân theo đạo và không theo đạo.
Sự thật về tình hình sinh hoạt tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam
là quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo. Theo thống kê chưa đầy đủ cho thấy,
Việt Nam có khoảng 95% dân số có đời sống tín ngưỡng và tôn giáo (trong hàng
nghìn tín ngưỡng thì tín ngưỡng phổ biến là thờ cúng ông bà tổ tiên và tín
ngưỡng thờ Mẫu). Tính đến nay, cả nước có khoảng 45.000 cơ sở tín ngưỡng, trong
đó có hơn 2.900 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, một số di tích được
UNESCO công nhận là di sản thế giới. Hàng năm, Việt Nam có gần 13.000 lễ hội,
gồm 5 loại: lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử cách mạng, lễ hội tôn giáo, lễ hội
du nhập từ nước ngoài, lễ hội văn hóa - thể thao và ngành nghề.
Riêng
trong lĩnh vực tôn giáo, Việt Nam có khoảng hơn 26,5 triệu tín đồ (chiếm 27%
dân số), 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được nhà nước công nhận hoặc cấp chứng
nhận đăng ký hoạt động. Cả nước hiện có hơn 57,4 ngàn chức sắc, trên 147 ngàn
chức việc, hơn 29,6 ngàn cơ sở thờ tự. Số lượng tín đồ theo các tôn giáo hiện
nay: Phật giáo 15,1 triệu; Công giáo 7,1 triệu; Cao đài 1,1 triệu; Tin lành 1
triệu; Hồi giáo 80.000; Phật giáo Hòa hảo 1,3 triệu, còn lại là các tôn giáo
khác (Tịnh độ Cư sỹ Phật hội, Tứ ân Hiếu nghĩa, Bà La môn, Bửu Sơn Kỳ Hương,
Minh sư đạo, Minh lý đạo…).
Ở khắp mọi miền của
đất nước, đặc biệt là tại các thành phố, các trung tâm tôn giáo lớn như Hà Nội,
Huế, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình, Tây Ninh, Cần Thơ…, các
sinh hoạt tôn giáo diễn ra khá sôi nổi, đa dạng và phong phú.
Hoạt động
của các thiết chế tôn giáo đã có những đóng góp nhất định trong việc tập hợp và
vận động quần chúng theo đạo - một lực lượng quan trọng trong khối đại đoàn kết
dân tộc - tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Các ngày lễ
trọng, các lễ nghi, lễ hội tôn giáo được tổ chức ngày càng trang nghiêm, quy mô
hơn trước và thu hút ngày càng đông đảo tín đồ tham dự. Nhiều sinh hoạt tôn
giáo đã trở thành sinh hoạt văn hoá cộng đồng được đông đảo tầng lớp nhân dân
tham gia với tinh thần phấn khởi, yên tâm và tin tưởng. Các lễ hội như lễ Phật
đản của Phật giáo, lễ Noel của Công giáo và đạo Tin Lành, lễ kỷ niệm ngày khai
đạo của đạo Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo, tháng ăn chay Ramadan của Hồi
giáo… được tổ chức trọng thể, trang nghiêm và đảm bảo an ninh trật tự. Lễ
hội của mọi tôn giáo đều trở thành hội lễ chung vui của toàn dân tộc như Lễ hội
Đền Hùng, lễ Noel, lễ hội La Vang.
Đặc biệt
lễ Phật đản của Phật giáo đã chính thức được UNESCO công nhận là một trong
những lễ hội tôn giáo lớn của thế giới. Một số lễ hội mang tính thế tục được dư
luận quan tâm đánh giá cao, như: Lễ cầu siêu cho những người đã hy sinh trong
cuộc kháng chiến do Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức năm 2005; Đại hội hành
hương La Vang lần thứ 27 kết hợp “Năm Thánh thể” với quy mô lớn do Hội đồng
Giám mục Việt Nam tổ chức; Lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Hội thánh do Tổng
hội Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) tổ chức năm 2005…
Theo Ban
Tôn giáo Chính phủ, trong 16 năm (2001-2017), số tín đồ của các tổ chức tôn
giáo đã được công nhận tăng lên 6% trong dân số. Đó là chưa kể các tôn giáo
nhóm nhỏ (chủ yếu là các nhóm Tin lành tư gia) chưa được công nhận và các hiện
tượng tôn giáo mới rất khó thống kê số lượng người theo. Số lượng tín đồ các
tôn giáo đều tăng lên, trong đó tăng nhanh nhất là tín đồ đạo Tin lành, từ
670.000 người năm 2004 đã tăng lên tới trên 1,2 triệu tín đồ năm 2015, tức là
tăng gấp gần 2 lần trong 10 năm. Sự phát triển có tính chất đột biến của đạo
Tin lành diễn ra chủ yếu ở khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Đây cũng là
hai địa bàn có sự chuyển đổi đức tin tôn giáo diễn ra mạnh mẽ nhất trong thời
kỳ đổi mới.
Việc Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra “Báo cáo tình hình nhân quyền thế giới”, trong đó cho
rằng, nhiều văn bản pháp luật của Việt Nam về vấn đề dân tộc, tôn giáo không
tương đồng với Công ước quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền con
người. Thậm chí, báo cáo đưa ra những cái nhìn lệch lạc như “Luật Tín ngưỡng,
tôn giáo là bước thụt lùi về tự do tôn giáo”, “tạo ra cơ sở pháp lý để đàn áp,
bóp nghẹt tôn giáo”. Cho rằng Việt Nam đề ra chính sách pháp luật nhưng trên
thực tế “không thực hiện”… Có thể thấy, đây không phải là lần đầu Bộ Ngoại giao
Hoa Kỳ công bố các báo cáo có nội dung sai lệch về tự do tôn giáo ở Việt Nam.
Nhiều lần, trong các báo cáo đều có nội dung nói rằng, Hiến pháp Việt Nam quy
định quyền tự do tôn giáo, tuy nhiên Chính phủ “vẫn tiếp tục hạn chế các hoạt
động có tổ chức của nhiều tôn giáo”, “một số tín đồ tôn giáo tiếp tục bị đàn áp
hoặc sách nhiễu”.
Với số
lượng tín đồ, chức sắc, cơ sở thờ tự, trường đào tạo, số lượng kinh sách được
xuất bản của các tôn giáo tăng lên nhanh chóng trong thời gian qua, những hoạt
động quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo ngày càng được mở rộng và thực tế
hoạt động sôi động của các tổ chức tôn giáo hiện nay là những minh chứng rõ
nhất cho những thành tựu của việc tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tôn giáo, tín
ngưỡng ở Việt Nam. Thực tiễn này đã bác bỏ mọi nhận xét thiếu khách quan về
việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta. Đối với các luận
điệu cho rằng, Việt Nam có các hoạt động đàn áp tôn giáo, cấm đoán các tổ chức
tôn giáo hoạt động, đây là những vu cáo vô căn cứ.
Chẳng hạn,
lâu nay tại Việt Nam đã xuất hiện không ít hoạt động tôn giáo trái pháp luật
của một số tổ chức Tin Lành nước ngoài chưa được cấp phép, điển hình là các đạo
lạ mang danh nghĩa Tin Lành truyền vào Việt Nam như Tân Thiên địa, Hội thánh
của Đức Chúa Trời mẹ... Hoạt động của phần lớn các tổ chức này trái với văn hóa
truyền thống của dân tộc, nhuốm màu mê tín dị đoan, có dấu hiệu trục lợi, nhiều
tổ chức vi phạm pháp luật. Đối với các hoạt động vi phạm pháp luật của các tổ
chức này, lực lượng chức năng Việt Nam đã nhắc nhở, chấn chỉnh và xử lý dựa
trên quy định pháp luật.
Cần những đánh giá khách quan
Như vậy, ở
Việt Nam hoàn toàn không có cái gọi là đàn áp tôn giáo. Một điều dễ nhận thấy,
đánh giá sai lệch vì những lý do khác nhau vẫn ẩn sau ngọn cờ tôn giáo. Đối với
Việt Nam, các thế lực cực đoan, chống đối luôn tìm mọi thủ đoạn để tách rời tôn
giáo ra khỏi sự quản lý của nhà nước, cốt để dễ dàng lợi dụng các tôn giáo vào
những mục đích chống phá. Thực tế cho thấy, việc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và một số
quốc gia phương Tây thường xuyên tổ chức các cuộc điều trần về tình hình tự do
tôn giáo ở Việt Nam, đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia “không có tự do
tôn giáo” cũng chỉ nhằm mục đích tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của nước
ta.
Hơn nữa,
cần phải thấy rằng, không thể có tự do tôn giáo tuyệt đối. Bởi xét về bản chất,
tôn giáo là một tổ chức tập hợp những người tin theo một đối tượng tôn thờ. Mọi
tổ chức tồn tại, hoạt động trong xã hội đều phải chịu sự quản lý, giám sát của
Nhà nước, tuân thủ quy định của pháp luật. Các tôn giáo cũng phải chịu sự quản
lý của Nhà nước, phải chấp hành quy định của pháp luật và điều này hoàn toàn
phù hợp với khoản 3, Điều 18 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi
pháp luật và khi giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng,
sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của
người khác”. Do đó, việc ban hành các văn bản pháp luật để tiến hành quản lý
nhà nước đối với các tôn giáo là nhu cầu tất yếu, khách quan của mọi quốc gia
trên thế giới.
Chính vì
vậy, những luận điệu cho rằng những chính sách tôn giáo của Việt Nam không phù
hợp với luật pháp quốc tế là vô căn cứ. Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do tôn
giáo, tín ngưỡng của người dân; nỗ lực bảo đảm cho các tôn giáo được hoạt động
bình thường trong khuôn khổ pháp luật.
CAND
Đăng nhận xét