Đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước Việt Nam, kỷ nguyên của độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất, là tiền đề của những thành tựu, kết quả to lớn trên mọi mặt kinh tế - xã hội của đất nước. Đây vừa là sự thống nhất về mặt lãnh thổ vừa là sự thống nhất về mặt ý chí, tạo nền tảng cho sự phát triển toàn diện, đưa đất nước vươn lên mạnh mẽ, sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định đại thắng mùa xuân 1975 sẽ mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người Việt Nam. Sự kiện này cũng đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ 20, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc.

Tuy nhiên, khi cả đất nước hướng về ngày thống nhất với niềm tự hào và sự trân trọng lịch sử, còn có những ý kiến đi ngược lại với suy nghĩ, tình cảm của dân tộc. Trên một số kênh thông tin hải ngoại thiếu thiện cảm với Việt Nam, mạng xã hội, các thế lực thù địch, đối tượng xấu đã ra sức bóp méo lịch sử, xuyên tạc ý nghĩa của chiến thắng này.

Các đối tượng đã cố tình bỏ qua bối cảnh lịch sử, sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam và bản chất của chính quyền Sài Gòn mà cho rằng “giải phóng miền Nam là sự xâm lược của miền Bắc”, là cuộc “nội chiến”, “huynh đệ tương tàn”, “nồi da, xáo thịt”.

Họ tìm cách đánh tráo khái niệm, tán dương chế độ cũ và khẳng định ngày 30-4-1975 là ngày “quốc hận”, đánh dấu “sự sụp đổ của chế độ tự do, dân chủ”. Không chỉ vậy, họ còn vu cáo chính quyền cách mạng đã “đàn áp, tắm máu nhân dân miền Nam”; “sau khi chiến tranh qua đi, kết quả của việc thống nhất đất nước chỉ là sự nghèo nàn, lạc hậu và “nếu không có biến động chính trị này thì đất nước sẽ phát triển hơn rất nhiều”.

Tất cả những luận điệu nêu trên đều sai trái, phản ánh ý đồ đen tối của các thế lực thù địch nhằm tuyên truyền phá hoại tư tưởng, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân; phủ định những hy sinh, mất mát của đồng bào ta, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta; khiến nhân dân suy giảm niềm tin vào Đảng. Âm mưu này hết sức nguy hiểm, đòi hỏi mỗi chúng ta phải hết sức tỉnh táo, cảnh giác, tuyệt đối không để kẻ xấu lợi dụng.

Chiến thắng 30-4-1975 là chiến thắng của lẽ phải, là khát vọng hòa bình và tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng ấy không có bất cứ sự đàn áp, tắm máu nào như kẻ xấu đồn thổi.

Sự giàu có, sầm uất của xã hội miền Nam Việt Nam dưới chế độ Việt Nam cộng hòa thực chất là sự giả tạo, không xuất phát từ nội lực mà trông cậy chủ yếu vào viện trợ của chính quyền Mỹ thời đó để xây dựng, nuôi sống guồng máy chiến tranh. Từ năm 1954 đến 1975, viện trợ của chính quyền Mỹ khi đó dành cho miền Nam hơn 26 tỉ USD. Nếu tính tổng các chi phí khác thì Mỹ đã bỏ vào Việt Nam khoảng hơn 160 tỉ USD.

Một chế độ xã hội mà hàng triệu người và gia đình của họ sinh sống bằng viện trợ và nhờ vào nghề cầm súng, không sản xuất, sáng tạo ra của cải thì mọi sự bóng bẩy bên ngoài chỉ nhằm che đậy những yếu kém bên trong.

Vì thế, ngay sau khi Mỹ rút lui thì vỏ bọc hào nhoáng ấy đã bị phá vỡ. Kinh tế miền Nam rơi vào khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp gia tăng. So với năm 1972, trong năm 1973, giá gạo tăng lên 100%, giá đường tăng lên 165%, giá dầu đun tăng gấp ba lần, giá xăng tăng sáu lần, giá phân bón, sợi, xi măng đều tăng từ 100% đến 200%; đến tháng 9-1973, miền Nam có hơn 2 triệu người thất nghiệp…

Chúng ta đều hiểu sau một cuộc chiến trường kỳ, dai dẳng, dĩ nhiên phải đối mặt với những khó khăn, thử thách để khôi phục, vực dậy nền kinh tế. Việc quy chụp, đổ lỗi, cho rằng kết quả của chiến thắng 30-4-1975 là sự “nghèo nàn, lạc hậu” và “nếu không có sự kiện này, đất nước sẽ phát triển hơn rất nhiều” thuần túy là cái nhìn sai sự thật, cực đoan, phiến diện, phi lịch sử.

Thực tế, sau 50 năm kể từ ngày giải phóng miền Nam, từ một nước nghèo nàn, lạc hậu; Việt Nam đã phá vỡ thế bao vây, cấm vận và đạt được nhiều thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng cao.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ; sẵn sàng “gác bỏ quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai”. Quan hệ Việt - Mỹ ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Đêm 11-7-1995 theo giờ Mỹ, rạng sáng 12-7-1995 theo giờ Việt Nam, Tổng thống Mỹ Bill Clinton và Thủ tướng Võ Văn Kiệt tuyên bố bình thường hóa quan hệ, thiết lập các hoạt động ngoại giao giữa hai nước.

Tháng 7-2013, Việt Nam và Mỹ xác lập quan hệ đối tác toàn diện và chỉ 10 năm sau đã nâng cấp thành đối tác chiến lược toàn diện (tháng 9-2023). Nếu như năm 1995, kim ngạch thương mại song phương hai nước đạt 450 triệu USD thì đến năm 2023 đã tăng hơn 246 lần (gần 111 tỉ USD). Từ năm 2014 về sau, Việt Nam đã trở thành nước ASEAN xuất khẩu nhiều nhất vào Mỹ.

Trong bài phát biểu chia tay Liên hợp quốc vào năm 2024, cựu Tổng thống Mỹ Joe Biden đã khẳng định: “Ngày nay, Mỹ và Việt Nam là đối tác và bạn bè. Đó là bằng chứng cho thấy ngay cả từ nỗi kinh hoàng của chiến tranh vẫn có một con đường phía trước. Mọi thứ có thể trở nên tốt đẹp hơn”.

Tổng thống Mỹ đương nhiệm Donal Trump cũng có những cảm tình tốt đẹp với Việt Nam. Ông cũng là tổng thống Mỹ đầu tiên đi thăm Việt Nam trong nhiệm kỳ đầu tiên, thậm chí đã thăm tới hai lần.

Với kiều bào nước ngoài, bao gồm những người từng một thuở “phía bên kia cầm súng khác”, Việt Nam cũng mở rộng cánh tay sẵn sàng đón họ trở về, tạo điều kiện để họ chứng kiến những đổi thay tích cực của đất nước và góp phần vào việc kiến thiết quê hương. Cựu Phó Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Cao Kỳ - người khét tiếng “chống cộng” cũng nhiều lần về nước và đều được lãnh đạo Việt Nam tiếp đón trên tinh thần mến khách, đoàn kết, nồng hậu.

Có thể nói với những nỗ lực của mình, Việt Nam đã phát huy tinh thần đoàn kết, hòa hợp dân tộc; thiết lập và phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam - Mỹ. Thực tế đó đã khiến những luận điệu sai trái, thù địch về ngày 30-4 trở nên lạc lõng và không có cơ sở tồn tại.

 

Đăng nhận xét

 
Top