Hiện nay, bên cạnh đại đa số nhận thức đúng thì vẫn có những cán bộ, đảng viên có nhận thức lệch lạc về giá trị, ý nghĩa của Chiến thắng 30-4-1975 - Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Hiện nay, bên cạnh đại đa số nhận thức đúng
thì vẫn có những cán bộ, đảng viên có nhận thức lệch lạc về giá trị, ý nghĩa
của Chiến thắng 30-4-1975 - Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Họ
đã ăn phải "bả độc" thông tin của các thế lực thù địch, để từ đó có
những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", sai lệch
trong nhận thức và hành động.
Vừa qua, tôi đã có một cuộc tranh luận khá
gay gắt với một người bạn làm quản lý tại một tờ báo điện tử có tiếng, nhiều
người đọc. Trong các sản phẩm báo chí của báo điện tử này, khi đưa, nhắc tới
ngày 30-4-1975 thì chỉ viết rằng đây là “Ngày thống nhất đất nước”. Tưởng báo
có chút nhầm lẫn, tôi đã gọi điện nhắc người bạn của mình làm ở đó rằng phải
gọi chính xác về kỷ niệm ngày 30-4-1975 là kỷ niệm “Ngày giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước”.
Nhưng đáng tiếc, bạn tôi trả lời rằng, họ
không nhầm lẫn, mà đây là chủ trương, quan điểm của Ban biên tập tờ báo trên
khi định nghĩa ngày 30-4-1975. Ngay cả “Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước”, tờ báo trên cũng chỉ ghi là “Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày
thống nhất đất nước”.
Tôi nói rằng: “Các bạn đã vi phạm đạo đức báo
chí, vì nhà báo không được quyền thay đổi tên gọi của một sự kiện, một lễ kỷ
niệm để từ đó làm thay đổi cách hiểu về bản chất của nó”. Sau đó, tờ báo ấy chỉ
chấp nhận sửa lại đúng tên gọi về lễ kỷ niệm quốc gia sắp được tổ chức là “Lễ
kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Còn trên các bản
tin của họ thì vẫn đề ngày 30-4-1975 là Ngày thống nhất đất nước!
Có thể những người quản lý tại tờ báo điện tử
nọ nghĩ rằng họ làm vậy với ý nghĩa "khép lại quá khứ" để hướng tới
tương lai, nêu cao tinh thần hòa hợp dân tộc... Tuy nhiên, cách làm ấy của họ
chính là làm thay đổi bản chất của sự kiện, chính là một kiểu lật sử, xúc phạm
công lao, xương máu của thế hệ đi trước. Bởi vì phần lớn chúng ta đều hiểu
rằng, không có “giải phóng miền Nam” thì sao có “thống nhất đất nước” được!
Có những người đặt câu hỏi theo kiểu vặn vẹo
rằng: Nói là “giải phóng miền Nam”, vậy thì ai giải phóng ai?
Có thể thấy rõ ràng là: Dân tộc Việt Nam,
đồng bào, chiến sĩ cả hai miền Nam-Bắc đã mang sức mình để tự giải phóng mình
khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai phản động tại miền Nam Việt
Nam.
Tại sao phải “giải phóng miền Nam” thì mới
“thống nhất đất nước”? Chúng ta cần phải thấy rằng, “thống nhất đất nước” là
một thành tựu vĩ đại, là một đích đến của mấy chục năm kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước tính từ khi đất nước bị chia cắt sau Hiệp định Geneva năm 1954. Thành
tựu này chỉ đạt được sau Chiến thắng vĩ đại 30-4-1975, khi quân và dân hai miền
Nam-Bắc đã giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của thực dân kiểu mới là đế
quốc Mỹ và tay sai là ngụy quyền. Như thế, “giải phóng miền Nam” là điều kiện
tiên quyết để “thống nhất đất nước”. Sau khi miền Nam được giải phóng thì hai
miền Bắc-Nam đã tiến hành Hội nghị hiệp thương chính trị để thống nhất nước nhà
về mặt Nhà nước.
Lại có người lý sự rằng, "có nhất thiết
phải thống nhất đất nước Việt Nam bằng các hành động quân sự, có nhất thiết
phải đổ máu không? Liệu có giải pháp hòa bình để thống nhất đất nước
không?".
Có thể thấy, từ các nhà lãnh đạo cho tới mỗi
người dân Việt Nam, không ai muốn có chiến tranh, không ai muốn phải đổ máu.
Hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc luôn là những điều mỗi người Việt Nam ước
mong, ấp ủ. Đấu tranh bằng biện pháp chính trị, bằng biện pháp ngoại giao để
thống nhất đất nước luôn được Đảng ta đặc biệt coi trọng.
Tuy nhiên, thống nhất đất nước tại Việt Nam
chỉ có được sau những kết quả về đấu tranh quân sự. Với những chiến thắng dồn
dập về quân sự của quân và dân cả nước trước kẻ địch, mà đỉnh cao là Chiến
thắng 30-4-1975, chúng ta mới có thể kết thúc chiến tranh. Và cũng chỉ vì thua
trên chiến trường, mà quyết định là sau thất bại của trận tập kích đường không
12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không” trên bầu trời Hà Nội tháng 12-1972 thì
đế quốc Mỹ mới chịu ký Hiệp định Paris năm 1973 và rút quân chủ lực khỏi miền
Nam Việt Nam. Như vậy, thực tế là giải pháp chính trị chỉ đạt được kết quả khi
đối phương thất bại trên chiến trường.
Cũng đã có những cơ hội để thống nhất đất
nước Việt Nam bằng các giải pháp hòa bình, tổng tuyển cử, nhưng đế quốc Mỹ và
tay sai luôn tìm mọi cách phá hoại các giải pháp hòa bình để thống nhất Việt
Nam, hòng giữ được sự thống trị của mình tại miền Nam Việt Nam.
Nếu như không có sự can thiệp của đế quốc Mỹ
và sự tráo trở của chính quyền Ngô Đình Diệm thì đất nước ta có thể sẽ thống
nhất bằng một cuộc tổng tuyển cử hòa bình vào năm 1956 như trong nội dung của
Hiệp định Geneva. Tuy nhiên, đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã phá
hoại Hiệp định Geneva, cố tình không tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử trên cả
nước để thống nhất đất nước. Bởi lúc đó, Mỹ-Diệm định lượng được rằng, nếu tổng
tuyển cử diễn ra thì chiến thắng sẽ dễ dàng về tay Chính phủ Việt Nam Dân chủ
cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bởi lúc đó, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa rất lớn, hợp lòng dân, đã lãnh đạo nhân
dân đánh thắng thực dân Pháp xâm lược với Chiến thắng Điện Biên Phủ "chấn
động địa cầu". Thậm chí, tình báo Mỹ đã kết luận rằng, nếu có tổng tuyển
cử thì kết quả tốt nhất cho Mỹ-Diệm là ít nhất khoảng 80% dân số sẽ bầu cho Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Năm 1973, ngụy quyền cũng không hề muốn ký
Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh, nhưng dưới sức ép của Mỹ (do Mỹ không
thể kham nổi cuộc chiến nữa) nên buộc phải ký. Trong Hiệp định Paris có các
điều khoản về cam kết tôn trọng ngừng bắn, giữ vững hòa bình ở miền Nam Việt
Nam, giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng và tránh mọi xung đột bằng vũ
lực.
Hiệp định Paris cũng quy định vấn đề thống
nhất nước Việt Nam bằng phương pháp hòa bình, thời gian thống nhất sẽ do miền
Bắc và miền Nam Việt Nam thỏa thuận. Tuy nhiên, ngay sau khi Hiệp định Paris
được ký kết, ngụy quân đã lập tức vi phạm hiệp định khi thực hiện hàng loạt
cuộc hành quân đánh phá, nống lấn vào vùng giải phóng. Thậm chí giới lãnh đạo
ngụy quyền còn lên kế hoạch toàn diện, lâu dài giai đoạn 1973-1978 hòng bình
định miền Nam Việt Nam, tiếp tục đàn áp, dìm nhân dân miền Nam trong bể máu.
Tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu tuyên
bố rằng: “Đừng nói giải pháp chính trị, giải pháp chính trị rồi đưa tới cộng
sản.... Hễ nó (Quân giải phóng) giỏi, nó thắng mình chịu. Mình thắng, nó phải
chịu. Không có cái chánh phủ liên hiệp tiên quyết... Sẽ không có tổng tuyển cử,
sẽ không có chính phủ liên hiệp, sẽ không có phân chia vùng kiểm soát, sẽ không
có lực lượng thứ ba và không có một Chính phủ Cách mạng lâm thời nào”.
Với tính chất phản động của ngụy quyền, thì
vấn đề hòa giải, hòa hợp dân tộc, khả năng tổng tuyển cử để thống nhất đất nước
đối với dân tộc Việt Nam trở nên phi thực tế. Nếu như không có sự lãnh đạo sáng
suốt, tài tình của Đảng ta, tài thao lược của các tướng lĩnh Quân đội ta, sự
anh dũng của quân dân ta để làm nên Chiến thắng 30-4-1975 thì sẽ không thể có
đất nước Việt Nam hòa bình, thống nhất và phát triển của ngày hôm nay. Sự đầu
hàng của chính quyền Dương Văn Minh là sự đầu hàng vô điều kiện.
Chiến thắng 30-4-1975 đã được ghi vào lịch sử
là chiến thắng vĩ đại của dân tộc Việt Nam để thống nhất đất nước, được thế
giới công nhận và khâm phục. Do vậy, thế hệ hôm nay, khi nhắc tới công lao của
cha ông cần hết sức trân trọng và biết ơn. Cần phải tìm hiểu lịch sử với thái
độ tôn trọng và thận trọng, nhất là đối với các sự kiện lớn, các nhà lãnh đạo
đã được ghi danh vào lịch sử, không được tự ý thay đổi các tên gọi của các sự
kiện lịch sử. Đặc biệt là cần tìm hiểu lịch sử từ các nguồn chính thức, chính
thống, tránh bị tiêm nhiễm, ảnh hưởng từ các nguồn thông tin không rõ ràng, bởi
đằng sau các thông tin, đánh giá về các sự kiện lịch sử từ các nguồn không
chính thống đều có thể tiềm ẩn những mưu đồ chính trị.
St
.jpg)
Đăng nhận xét