-----

Một trong những âm mưu xảo quyệt, thâm độc của các thế lực phản động, thù địch chống Việt Nam hiện nay đó là trào lưu xét lại lịch sử với nhiều luận thuyết nhằm giải thích, bào chữa cho cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược Việt Nam trước đây của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong đó đáng chú ý hơn cả là nhận định:“thực dân Pháp xâm lược Việt Nam là sự khai hóa văn minh”, “Việt Nam đánh Pháp, đuổi Mỹ thực chất là đánh đuổi các nền văn minh nhân loại”... Luận điệu này như một tấm bùa hộ mệnh, lời bào chữa để bảo vệ, thanh minh cho những hành động hèn nhát, bán nước hại dân của chế độ phong kiến thối nát cuối đời nhà Nguyễn, chính quyền bù nhìn Sài Gòn trước đây; đó là luận điệu của những kẻ vong ơn bội nghĩa, “ăn cây táo, rào cây sung”, một kiểu tư duy nô lệ.


 Trên thực tế, việc phê phán, lên án và vạch trần bản chất của chủ nghĩa thực dân phương Tây nói chung, thực dân Pháp nói riêng đã được lịch sử nhân loại làm rõ. Chủ tịch Hồ Chí Minh tố cáo thực chất cái gọi là “khai hóa văn minh” của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam: “đó chỉ là bình phong để họ áp đặt sự thống trị, thực hiện công cuộc khai thác ở một nước thuộc địa”. Điều này còn được thể hiện ngay trong chính lời người Pháp, tại “Thư từ xứ Bắc Kỳ và Madagascar gửi bạn bè ở Pháp”, tên tướng thực dân Hubert Lyautey đã xác định: “Khi chiếm một ổ giặc, phải nghĩ tới ngay cái chợ người ta sẽ thiết lập hôm sau; nghĩ như thế thì người ta sẽ đánh chiếm nó một cách khác... Một con đường không phải chỉ là một đường hành quân, xâm lăng, còn là con đường để đi lại buôn bán mai sau”. Hay Albert Sarraut hai lần làm toàn quyền ở Đông Dương đã mị dân bằng “huyền thoại khai hóa” của thực dân Pháp với lý do “yêu chuộng cái phổ biến; chủ nghĩa nhân bản và ý thức thiện mỹ, tinh thần công chính của nó tạo thành những quan niệm vị tha tràn khỏi khuôn khổ quốc gia để gieo rắc cho toàn thể nhân loại một giấc mơ công bằng, liên đới, huynh đệ”. Và theo Sarraut, để thực hiện ơn huệ với quốc gia, dân tộc được khai hóa ấy, thực dân sẽ thiết lập an ninh trật tự, cứu tế xã hội, khai thác đất đai, hầm mỏ, mở mang học chính... “Chúng ta đừng gian lận. Chẳng có lợi gì bôi nhọ sự thật. Thực dân, lúc ban đầu không phải là một hành động khai hóa văn minh. Nó chỉ là một hành động bạo lực, và bạo lực vị lợi”, Sarraut thẳng thắn thú nhận. 

Khác xa với những mỹ từ cao cả nhằm “ru ngủ” của thực dân Pháp ở Việt Nam, những hành động thực tế của chúng đã vạch trần bản chất của chính nó. Về chính trị, pháp lý, sau khi xâm chiếm Việt Nam, “văn minh” của thực dân Pháp được thể hiện ở chỗ, họ đã không áp dụng những thành tựu của cuộc Đại cách mạng Pháp năm 1789 để thủ tiêu chế độ phong kiến chuyên chế đã lỗi thời, thay bằng một chế độ chính trị mới tiến bộ hơn; trái lại, những “nhà khai hóa” lại duy trì chế độ phong kiến làm tay sai cho bộ máy thống trị thực dân. 

Để duy trì ách thống trị của mình, thực dân Pháp còn thi hành chính sách “chia để trị” trên tất cả các mặt bao gồm cả tổ chức hành chính, tôn giáo, dân tộc…, hòng chia rẻ tình đoàn kết, tạo sự xung khắc vùng miền, sắc tộc, tôn giáo trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Chúng thủ tiêu các quyền tự do, dân chủ của người dân; phân biệt đối xử giữa người da trắng và người bản địa; thẳng tay chém giết những người Việt Nam yêu nước dám đứng lên chống lại sự thống trị tàn bạo của chúng. Các cuộc khởi nghĩa, các phong trào đấu tranh yêu nước của thân hào, nghĩa sĩ, nông dân như Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám... đều bị thực dân Pháp đàn áp, “dìm trong biển máu”. Các nhà tù khổ sai ở Tân Calêđôni, Côn Đảo... đều đầy ắp tù chính trị người bản xứ sau những cuộc đàn áp. 


Trong lĩnh vực kinh tế, nhằm vơ vét tài nguyên, khoáng sản, làm giàu cho chính quốc, thực dân Pháp đã đẩy mạnh công cuộc khai thác thuộc địa, đỉnh cao là cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1914) và lần thứ hai (1919 - 1929), làm khánh kiệt tài nguyên của đất nước. Đi kèm với đó, hệ thống giao thông (đường bộ, đường sắt, đường thủy, cảng biển…) phục vụ cho việc khai thác thuộc địa được mở mang; một số công trình dân sinh phục vụ cho nhu cầu của giới thực dân được xây dựng, chứ không nhằm đem lại cuộc sống tốt đẹp cho người dân bản xứ.

Chính quyền thuộc địa đã áp dụng chính sách độc quyền, khuyến khích tiêu thụ rượu, thuốc phiện, đã làm hại giống nòi Việt Nam nhưng đem lại nguồn thu không nhỏ cho những tên thực dân. Nhà báo người Pháp Andrée Viollis khi điều tra tình hình Đông Dương đã ghi lại trong cuốn Indochine S.O.S có đoạn: “Ở Pháp, có một tiệm hút hay một vài viên phiện là có thể bị bắt tù vì phạm tội làm suy đồi dòng giống Pháp. Nhưng ở đây, thuốc phiện bán công khai và mỗi năm làm lợi cho thương chính giữ độc quyền 15 triệu bạc. Một bạn đường người An Nam còn nói với tôi: Nước Pháp cũng kiểm soát cả rượu; thứ rượu nấu bậy bạ, pha nhiều chất độc để đầu độc chúng tôi”. Cùng với đó, thực dân Pháp còn thực hiện chế độ cho vay nặng lãi, sưu cao, thuế nặng, với nhiều loại thuế, làm cho đời sống người dân vốn đã cơ cực lại càng cơ cực, nhiều người vì gánh nặng nợ nần đã phải “bán vợ, đợ con” và nhà cửa, ruộng vườn để thoát nợ nần, tù tội. 


Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, thực dân Pháp thực hiện chính sách “cưỡng bức đồng hóa”, nhằm đưa văn hóa Việt Nam lệ thuộc sâu sắc vào văn hóa Pháp; nô dịch tinh thần quần chúng, biến quần chúng thành những đám đông tự ti, khiếp nhược trước sức mạnh của văn minh đại Pháp; mất tin tưởng vào khả năng và tiền đồ của dân tộc, cắt đứt với mọi truyền thống tốt đẹp, phục vụ trung thành cho quyền lợi của đế quốc. Để thực hiện mục đích đó, các chính sách văn hóa khác nhau đã được thi hành trong nhiều lĩnh vực: giáo dục, tôn giáo, báo chí, văn học nghệ thuật, phát triển hạ tầng cơ sở, làm biến đổi tục lệ địa phương qua việc xây dựng hương ước cải lương…

Để hoàn thiện quan điểm đồng hóa về văn hóa với thuộc địa ở Đông Dương, thực dân Pháp thực hiện công việc mà họ coi là vô cùng quan trọng là tách văn hóa Đông Dương, văn hóa Việt Nam ra khỏi sự ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Hoa. Một trong những biện pháp để thực hiện công cuộc này chính là việc Pháp tạo điều kiện, cổ vũ việc phổ biến chữ quốc ngữ ở Việt Nam, là thứ chữ ghi âm tiếng Việt dựa theo bảng chữ cái Latin do các giáo sĩ đạo Kitô sáng tạo nhằm mục đích thuận lợi cho việc truyền giáo. Không còn Hán Nôm mà sử dụng chữ quốc ngữ trong giao tiếp cũng như văn tự, Pháp cũng cho khai tử luôn các trường học kiểu cũ, và các kỳ thi Nho học của triều đình phong kiến. 

Với mục đích hạn chế thanh thiếu niên Việt Nam đến trường, chính quyền thực dân quy định, hệ tiểu học gồm 5 lớp từ thấp đến cao, học sinh phải thi lấy bằng Sơ học yếu lược sau khi học được 3 năm và phải học bằng tiếng Pháp ở hai năm cuối. Các quy định khắt khe đó đã khiến nhiều học sinh nông thôn bỏ học, nên tình trạng mũ chữ vẫn là phổ biến trong dân chúng. Theo thống kê năm 1914, bình quân cả ba xứ, chỉ có 20% số trẻ em đến tuổi đi học được đến trường, 80% trẻ em Việt Nam bị thất học. Cho đến năm 1930, tổng số học sinh, sinh viên từ tiểu học đến đại học chỉ chiếm 1,8% dân số Việt Nam. Do số người được đi học thấp, kết quả là tới năm 1945, trên 95% dân số Việt Nam mù chữ. 

Việc giảng dạy được thực hiện bằng tiếng Pháp và chương trình mang tính nhồi sọ, nô dịch và ngu dân, làm sai lệch lịch sử dân tộc Việt Nam, nghiêng hẳn về tuyên truyền cho nền văn hóa Pháp, phủ nhận sự tồn tại độc lập của nền văn minh bản địa, nhằm làm lạc hướng, tạo ra trong thanh thiếu niên tư tưởng lệ thuộc Pháp, khiếp sợ trước sức mạnh vật chất của chính quốc, hàm ơn đối với “công khai hóa” của chủ nghĩa thực dân và do đó sẵn lòng phục tùng Pháp, biến họ thành những kẻ mất gốc, quên đi nguồn gốc dân tộc và lịch sử nước mình. 


     Về tôn giáo, Pháp sử dụng Kitô giáo như một công cụ đắc lực để lan tỏa sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây ở Việt Nam. Pháp đã liên tiếp buộc nhà Nguyễn phải ký những văn bản chính sách có lợi cho sự phát triển của đạo Kitô. Bên cạnh việc tạo điều kiện cho Kitô giáo phát triển, chính quyền bảo hộ còn đưa ra những chính sách bất bình đẳng tôn giáo, phân biệt đối xử giữa các tôn giáo, tỏ thái độ chỉ coi trọng duy nhất Kitô giáo, gây chia rẽ sâu sắc trong nội bộ dân tộc.

Báo chí được Pháp mang tới Việt Nam và biến thành công cụ phục vụ cho thực dân tại xứ thuộc địa. Pháp tài trợ và tạo điều kiện cho sự xuất hiện của các tờ báo thân Pháp, ca ngợi công lao khai hóa văn minh cùng các thành tựu văn hóa Pháp, khuếch trương bộ mặt hào nhoáng của thực dân và tay sai trước người dân.


Trên bình diện văn hóa vật chất, Pháp cho xây dựng một loạt đô thị kiểu mới, nhiều cơ sở hạ tầng hiện đại (công trình giao thông, nhà xưởng, rạp chiếu phim, nhà triển lãm…) phô trương “văn minh” của Đại Pháp, mua chuộc người dân An Nam, đặc biệt là tầng lớp trí thức. 

    Tại khu vực nông thôn, thực dân Pháp cho thi hành chính sách cải lương hương chính, lập hương ước cải lương mới thay thế cho các “cựu ước” cũ, tạo ra những biến chuyển về tục lệ địa phương. Thực dân Pháp muốn loại bỏ bộ máy cai trị làng xã cũ, hội đồng kỳ mục, vốn là những kẻ cứng đầu cứng cổ theo lề lối phong kiến, nặng tư tưởng Nho học, không phải vì muốn cải thiện đời sống của nhân dân mà muốn bằng một bộ máy mới, đưa giai cấp địa chủ đã được tân học hóa lên nắm quyền cai trị, gắn kết chặt chẽ việc cai trị ở làng xã với hệ thống cai trị của chính quyền thực dân. Từ đây, làng xã Việt Nam gắn với hương ước mới do thực dân Pháp đề ra, đó là hương ước cải lương, chú trọng việc loại bỏ bớt các thủ tục rườm rà, tốn kém trong tục lệ làng, xã vì vậy, nhìn bề nổi, có vẻ theo chiều hướng tích cực, hạn chế bớt những chi tiết lãng phí, không phù hợp trước kia nhưng lại chuyển sang nộp phạt, nộp tiền làm những việc đó để thành lập quỹ làng, nhưng quỹ làng đó phần lớn người dân không được tự tiện sử dụng mà phải nộp vào ngân hàng, làm lợi cho chính quyền. Nói cho cùng, mục đích của những chính sách này không phải để làm lợi cho người dân mà là để chi phối và can thiệp sâu sắc vào đời sống của người dân sau lũy tre làng, tiến tới hạn chế tối đa quyền tự quản làng xã.

Trên lĩnh vực y tế, hầu như người dân không được hưởng sự chăm sóc y tế, thường xuyên đối mặt với các loại dịch bệnh, đặc biệt là các loại bệnh truyền nhiễm có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và khả năng gây tử vong…


Như vậy, việc chúng ta đánh đuổi thực dân Pháp (hay đế quốc Mỹ sau này), thực chất là đánh đuổi sự dã man, tàn bạo và tư tưởng áp bức, bóc lột, muốn nô lệ dân tộc khác mà thôi. Đó là hành động chính nghĩa để giành độc lập cho Tổ quốc và ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân... Do đó, nói Việt Nam đánh Pháp, đuổi Mỹ thực chất là đánh đuổi nền văn minh nhân loại là cách nói “tát bùn sang ao”, “cả vú lấp miệng em” hòng đánh lừa một bộ phận nhân dân nhẹ dạ cả tin và thiếu hiểu biết. Từ năm 1858 đến trước khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nhân dân ta lúc đó đã được hưởng những thành tựu văn minh gì, ngoài làm một kiếp ngựa trâu không hơn không kém, là trên 90% nhân dân mù chữ, tài nguyên thiên nhiên của đất nước bị vơ vét để làm giàu cho nước Pháp, hơn 2 triệu đồng bào phải phơi xác nơi đầu đường, xó chợ vì đói, rét. Những công trình cầu cống, đường sắt, nhà ga xe lửa, công trình xây dựng mà thực dân Pháp dựng lên ở Việt Nam trước đây cũng không phải vì mục đích tốt đẹp “khai sáng văn minh” cho chúng ta, mà chính là để phục vụ việc bóc lột, khai thác được thuận tiện, nhanh chóng mà thôi...


Chính vì thế, việc thanh minh, bào chữa cho những tội ác của thực dân Pháp đã gây ra với đồng bào ta trước đây chính là hành động “ngậm máu phun người”, “vong ân bội nghĩa”, đánh đồng sự hy sinh xương máu của bao anh hùng liệt sĩ với hành động xâm lược phi nghĩa, vô nhân đạo của bọn cướp nước và tay sai bán nước hèn nhát. Tuyên truyền, phản bác, đập tan luận điệu “khai hóa văn minh” của các thế lực thù địch, bọn phản động, giúp chúng ta khẳng định giá trị của độc lập, tự do dân tộc; tưởng nhớ, tri ân các bậc cha anh, những anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống vì một Việt Nam hòa bình, ổn định, phát triển như hiện nay./.


#st

Đăng nhận xét

 
Top