“Tình hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Cuba là kho báu vô giá của cả hai dân tộc”. Đây là nhận định của Tiến sĩ Ruvislei González Saez, Phó chủ tịch Hội Hữu nghị Cuba - Việt Nam, trao cuộc trao đổi với phóng viên nhân kỷ niệm 50 năm chuyến thăm đầu tiên của Tổng Tư lệnh Cuba Fidel Castro tới Việt Nam và vùng mới giải phóng miền Nam Việt Nam (tháng 9-1973).
Ông
González Saez, đồng thời là Giám đốc Chương trình Quan hệ Quốc tế tại Cuba,
nhấn mạnh ý nghĩa của tháng 9 trong suốt chiều dài lịch sử quan hệ của hai nước.
Ngày 12-9-1973, đúng 50 năm trước, Chủ tịch Fidel đã tới Việt Nam, trở thành
người đứng đầu chính phủ đầu tiên và duy nhất đến thăm vùng giải phóng miền Nam
Việt Nam.
10
năm trước đó, ngày 25-9-1963, Cuba thành lập Ủy ban đoàn kết đầu tiên với Việt
Nam. Tiến sĩ González Saez nhấn mạnh tháng 9 là tháng đặc biệt trong quan hệ
song phương, là thời điểm để lắng đọng và suy ngẫm về những tình cảm thân thiết
giữa hai dân tộc vốn là hình mẫu trong quan hệ quốc tế này, để bắt đầu mở ra
một trang khác cho lịch sử đoàn kết anh em giữa Cuba và Việt Nam.
Thế
giới đang trải qua những thách thức phức tạp và điều kiện hiện nay đã rất khác.
Mặc dù vậy, bất chấp khoảng cách địa lý, Cuba và Việt Nam vẫn kiên trì nâng tầm
mối quan hệ lịch sử trên mọi phương diện. Tình cảm giữa hai dân tộc không mang
tính chính trị mà là tình anh em chân thật, xuất phát từ trái tim.
Chuyên
gia Cuba nhấn mạnh rằng những dịp kỷ niệm như tháng 9 năm nay là cột mốc quan
trọng, là dịp để những người trẻ hiểu được cha ông đã dày công gây dựng và vun
đắp mối tình hữu nghị này như thế nào qua thời gian, truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác.
Điểm
lại những cột mốc quan trọng trong quan hệ kể từ khi hai nước chính thức thiết
lập quan hệ ngoại giao ngày 2-12-1960, nhà nghiên cứu Cuba cho rằng năm 1963 là
năm quan trọng đánh dấu cam kết cao độ của La Habana với Hà Nội. Nhà lãnh đạo
lịch sử của Cách mạng Cuba Fidel Castro đã giao nhiệm vụ cho nữ anh hùng của
Moncada - bà Melba Hernández - tổ chức một phong trào đoàn kết và ủng hộ cuộc
đấu tranh giải phóng miền Nam Việt Nam.
Kể
từ khi thành lập vào ngày 25-9-1963, bà Melba đã chủ trì Ủy ban Cuba Đoàn kết
với miền Nam Việt Nam, với sự hỗ trợ của Phong trào Hòa bình Cuba và Viện Cuba
Hữu nghị với các Dân tộc (ICAP), cùng nhiều tổ chức quần chúng khác như Trung
tâm những người lao động Cuba (CTC) và Liên hiệp Phụ nữ Cuba (FMC).
Nhiều
tờ báo danh tiếng thời bấy giờ như Revolución (Cách mạng) và Hoy (Ngày nay),
cùng đông đảo các nghệ sĩ và trí thức Cuba cũng nhiệt tình tham gia phong trào
đoàn kết với Việt Nam. Che Guevara là diễn giả đầu tiên tại lễ thành lập ủy
ban. Mỗi trung tâm sinh viên và người lao động của Cuba đều có một tổ chức đoàn
kết với Việt Nam…
Phong
trào ở Cuba đã gây được tiếng vang trên thế giới, để các nước khác và nhân dân
yêu chuộng hòa bình biết được sự thật về cuộc chiến bất công tại Việt Nam, nơi
chứng kiến nhiều tội ác chống lại một dân tộc dũng cảm có đầy đủ quyền được độc
lập hoàn toàn. Từ đây, một làn sóng khổng lồ ủng hộ nhân dân Việt Nam anh em đã
trỗi dậy, kể cả ngay chính tại Mỹ. Hàng nghìn người Mỹ, đặc biệt là giới trẻ,
đã từ chối tham gia cuộc chiến.
Ngày
15-7-1976, sau chiến thắng của Việt Nam, Lào và Campuchia, Ủy ban Đoàn kết nêu
trên đã trở thành Hội Hữu nghị Cuba - Việt Nam.
Ngày
12-9-1973, chuyến thăm đầu tiên của Chủ tịch Fidel tới Việt Nam đã gây chấn
động. Không thể không nhắc đến một cử chỉ mang đậm tính biểu tượng: đó là việc
hầu hết các lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam tại thời điểm đó là Tổng Bí thư
Lê Duẩn, Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội Trường Chinh, Thủ tướng Phạm Văn
Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và tất cả các ủy viên Bộ Chính trị đều tới sân
bay đón Chủ tịch Fidel.
Sau
nghi lễ đón tiếp và giao lưu với nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Fidel cùng các nhà
lãnh đạo Lê Duẩn, Trường Chinh và Phạm Văn Đồng cùng đi trên một chiếc xe mui
trần, lần đầu tiên được sử dụng trong nghi thức đón tiếp nguyên thủ quốc gia
hoặc người đứng đầu chính phủ. Đây thực sự là khoảnh khắc có một không hai khi
những vĩ nhân của cả hai dân tộc cùng đứng chung một khuôn hình.
Người
dân Việt Nam đổ ra đường chào đón mỗi khi Chủ tịch Fidel đi qua và nhà lãnh đạo
Cuba hết sức xúc động trước những tình cảm nồng hậu và chân thành này. Điều duy
nhất ông tiếc nuối là không kịp thăm Việt Nam trước năm 1969 để gặp Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại.
Theo
lời kể của cố đạo diễn Santiago Álvarez, người có vinh dự được đồng hành cùng
lãnh tụ Fidel trong chuyến đi tới vùng mới giải phóng miền Nam Việt Nam, khoảnh
khắc Tổng Tư lệnh Cuba được lãnh đạo Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam và các chiến sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đón sang bên kia
sông Bến Hải, dọc theo vĩ tuyến 17, vô cùng đặc biệt. Chủ tịch Fidel đã đặt
chân đến nơi mà chiến tranh đạt đến độ tàn khốc nhất, nơi thể hiện chủ nghĩa
anh hùng của dân tộc Việt Nam.
Cố
đạo diễn Santiago Álvarez sau này đã quay bộ phim tài liệu “Bốn cây cầu” dựa
trên ý tưởng thú vị về con đèo gần Đông Hà, nơi có 3 cây cầu bắc qua sông Cam
Lộ.
Công
trình đầu tiên do người Pháp xây dựng, đại diện cho chủ nghĩa thực dân và đã bị
phá hủy; cầu thứ hai do người Mỹ xây dựng, đại diện cho chủ nghĩa thực dân mới
và cũng bị phá hủy. Cây cầu thứ ba là cây cầu của Việt Nam mà nhà lãnh đạo lịch
sử Cuba đã đi qua, khiêm tốn nhưng mới mẻ. Cây cầu thứ tư mà đạo diễn Santiago
Álvarez đề cập trong tác phẩm của mình chính là cầu nối của tình đoàn kết.
Chủ
tịch Fidel đã giương cao lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam như thể ông chính là người chiến sĩ mang cờ hiệu của một trong những trận
chiến khốc liệt ở Quảng Trị. Đẫm mồ hôi, nhưng ông thực sự vô cùng phấn khởi.
50
năm đã trôi qua nhưng lời bất hủ của Chủ tịch Fidel “Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng
hiến dâng cả máu của mình!” đã thấm sâu vào trái tim của dân tộc Việt Nam anh
em. Nhớ lại những ngày mùa Thu lịch sử này, nhân dân Cuba và Việt Nam càng
quyết tâm cùng nhau vun đắp tình đoàn kết thủy chung, nắm tay nhau cùng bước
vào một chương mới của mối quan hệ đặc biệt, không có tiền lệ, là hình mẫu của
quan hệ quốc tế - như vị Tổng Tư lệnh Cuba từng nói.
St
Đăng nhận xét