Tôn giáo tín ngưỡng vừa là hợp phần quan trọng của một nền văn hóa vừa làm nên sắc thái của nền văn hóa ấy. Văn hóa tâm linh là một di sản đặc biệt của mỗi dân tộc, ẩn chứa nhiều truyền thống và giá trị đặc sắc cần nghiên cứu, bảo tồn và phát huy.
1. Tôn
giáo và tín ngưỡng trong văn hóa
Theo
lý thuyết văn hóa học hiện đại, một nền văn hóa có thể vi phân (một cách tương
đối) thành bốn hợp phần bao gồm văn hóa sản xuất của cải vật chất là toàn bộ
những sáng tạo trong lĩnh vực lao động sản xuất (chẳng hạn như văn hóa trồng
lúa nước); văn hóa đảm bảo đời sống (ăn, mặc, ở, đi lại, diễn xướng…); văn hóa
quy phạm là những sáng tạo nhằm tạo ra kỷ cương, trật tự xã hội và cuối cùng là
văn hóa tâm linh nhằm đáp ứng nhu cầu gửi gắm đức tin của cá nhân và cộng đồng.
Nếu như văn hóa sản xuất của cải vật chất là nền tảng chi phối đặc trưng của
một nền văn hóa, thì văn hóa tâm linh lại là thành tố giúp người ta nhận diện
ra một nền văn hóa.
Như
vậy, tôn giáo tín ngưỡng vừa là hợp phần quan trọng của một nền văn hóa vừa làm
nên sắc thái của nền văn hóa ấy. Văn hóa tâm linh là một di sản đặc biệt của
mỗi dân tộc, ẩn chứa nhiều truyền thống và giá trị đặc sắc cần nghiên cứu, bảo
tồn và phát huy.
2. Di
sản văn hóa tâm linh Việt Nam
Nhìn
từ yếu tố nội sinh, với người Việt cổ, tín ngưỡng thờ thần núi, thần sông giữ
vai trò đặc biệt quan trọng. Tản Viên sơn thánh được tôn lên hàng Tứ bất tử và
là biểu tượng cho sức mạnh và những gì được coi là linh thiêng nhất.
Việt
Nam là quốc gia có lượng mưa hằng năm cao vào loại nhất thế giới - nguyên nhân
dẫn tới mạng lưới sông ngòi dày đặc. Tác động của môi trường sông - nước mạnh
đến mức người Việt đồng nhất khái niệm quốc gia với NƯỚC. Từ hoàn cảnh sống đó,
người Việt đã tạo nên một nền văn hóa sông nước. Hầu như con sông nào cũng hiện
diện thủy thần cùng nhiều nghi lễ, tục thờ cúng liên quan đến cuộc sống gắn với
nghề sông biển.
Tục
thờ cúng tổ tiên, nhớ ơn ông bà là dạng thức tín ngưỡng đặc biệt của người Việt
Nam gồm những nghi thức thể hiện tấm lòng thành kính biết ơn tổ tiên, ông bà,
cha mẹ đã sinh thành gây dựng cuộc sống và phù hộ cho con cháu. Về phương diện
đạo lý, tục thờ cúng tổ tiên góp phần xây dựng nên truyền thống uống nước nhớ
nguồn, một giá trị văn hóa cao đẹp. Trải qua nhiều thế hệ, thờ cúng tổ tiên
thành nghi lễ thiêng liêng thờ Quốc tổ Hùng Vương, một tín ngưỡng có sức mạnh
gắn kết dân tộc thành một khối thống nhất.
Qua
đó, người Việt Nam bày tỏ tấm lòng hiếu kính với Quốc tổ và các bậc tiền liệt;
hội tụ tinh hoa các giá trị văn hóa, củng cố và nhân lên niềm tin vào sức mạnh
và tiền đồ của dân tộc. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã được Tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hóa LHQ (UNESCO) đánh giá là di sản văn hóa có giá trị nổi
bật mang tính toàn cầu, khích lệ ý thức chung của mọi dân tộc trong việc thúc
đẩy giá trị đó, công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Đặc
điểm nổi trội của văn hóa tâm linh Việt Nam là tín ngưỡng sùng bái người có
công chống giặc ngoại xâm. Thường xuyên phải đứng lên cầm vũ khí chống quân xâm
lược, người Việt coi độc lập dân tộc và lợi ích quốc gia là lý tưởng thiêng,
nên những người hy sinh vì nước, có công đánh giặc ngoại xâm đều hóa thần hiển
thánh. Từ nhân vật huyền thoại Thánh Gióng, đến những nhân vật lịch sử: Hai Bà
Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo… đều được tôn thánh, nhân dân
lập đền miếu thờ phụng theo triết lý Sinh vi danh tướng, tử vi thần (Sống làm
danh tướng, chết sẽ là thần).
Trong
đời sống tâm linh, người Việt dành sự kính ngưỡng đặc biệt cho Mẹ. Từ hình
tượng Mẹ Âu Cơ đến tâm thức coi những con sông lớn đem lại nguồn sống cho cộng
đồng là sông Cái (Mẹ), đã nói lên vai trò của phụ nữ, của người mẹ trong văn
hóa Việt Nam. Tín ngưỡng thờ Mẫu có nguồn gốc lịch sử và xã hội sâu xa và nằm
trong văn hóa truyền thống Việt. Đối tượng được kính ngưỡng, tôn thờ là phụ nữ
(Thánh Mẫu - người mẹ hiển thánh). Có yếu tố tiếp biến từ Đạo giáo Trung Hoa,
Phật giáo Ấn Độ; song về cơ bản, thờ Mẫu Việt Nam là một tín ngưỡng bản địa.
Với quyền năng phi thường, Thánh Mẫu bảo trợ và che chở cho con người. Trong
biểu tượng này, tín ngưỡng thờ Mẫu còn gửi gắm khát vọng giải thoát khỏi thành
kiến, ràng buộc của xã hội bị tư tưởng Khổng giáo chi phối. Thực hành Tín
ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt Nam đã được UNESCO ghi danh tại Danh sách
Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại vào năm 2016.
Với
vị trí địa - văn hóa giao tiếp, Việt Nam còn thu nhận và biến đổi làm phong phú
đời sống tâm linh bằng nhiều giá trị văn hóa đến từ bốn phương. Có nguồn gốc từ
Nam Á, Phật giáo đến Việt Nam vào khoảng thế kỷ 2, là một phần không thể thiếu
trong văn hóa tâm linh và đồng hành cùng dân tộc gần 2.000 năm qua. Từ triết lý
căn bản, Phật giáo còn là nguồn cảm hứng hình thành tín ngưỡng, nghi thức thờ cúng
ở nhiều địa phương, hòa trộn với tín ngưỡng bản địa: Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân
Hiếu Nghĩa, Hòa Hảo…
Lâu
đời không kém Phật giáo là Nho giáo và gắn liền với nó là Đạo giáo. Công giáo
lần đầu xuất hiện ở Việt Nam từ đầu thế kỷ 16, đến thế kỷ 17 thực sự du nhập...
Văn hóa tâm linh ở Việt Nam mang tính đa dạng của văn hóa tộc người và vì vậy,
đời sống tâm linh của các cộng đồng cư dân phong phú. Đây là đặc trưng, nét đặc
sắc của văn hóa tâm linh Việt Nam.
1.
Văn hóa tâm linh Việt Nam hình thành từ 2 nguồn: nội sinh và ngoại sinh, hầu
như không có sự xung khắc, đối lập. Các tôn giáo tín ngưỡng ngoại lai khi vào
Việt Nam đều giao hòa gắn kết với văn hóa bản địa.
2.
Tôn giáo, tín ngưỡng, văn hóa tâm linh Việt Nam thường mang tính chất thực tế
sâu sắc, không có đất cho khuynh hướng cuồng tín (gần chùa gọi Bụt là anh, để
là đất cất nên Bụt…). Bởi thế, các tôn giáo cực đoan, ý đồ kích động tôn giáo
không mấy khi thành công.
3.
Văn hóa tâm linh quan hệ mật thiết với chính quyền (đặc biệt là Phật giáo) trên
nền tảng lợi ích quốc gia. Trong đó, thần quyền thường dưới vương quyền. Đây là
điều khác với nhiều quốc gia khác trên thế giới.
4.
Nét đặc sắc của văn hóa tâm linh Việt Nam là sự dung hợp giữa các tôn giáo và
tín ngưỡng. Thời Lý - Trần, Đạo - Phật - Nho đã từng gắn với nhau theo một dạng
thức tam giáo đồng quy. Khi xuất hiện tín ngưỡng thờ Mẫu, hầu như trong khuôn
viên chùa đều có đền thờ Tam phủ, Tứ phủ và trong rất nhiều nghi thức của tín
ngưỡng thờ Mẫu, có những nội dung của Phật giáo.
Giải
pháp bảo tồn và phát huy
Đầu
tiên là cần thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, với luận điểm rất quan trọng: “Học
thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng cá nhân. Tôn giáo của Chúa
Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó
là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó,
chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật
Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho mọi
người, mưu phúc lợi cho xã hội”. Đây là luận điểm có tính phương pháp luận,
theo đó: tôn giáo, tín ngưỡng chân chính luôn có đích hướng thiện, đều mưu cầu
hạnh phúc cho loài người. Vì vậy, những người làm chính trị tôn trọng quy luật
tự nhiên thì luôn tìm mọi cách để phát huy tốt nhất những mặt tích cực của tôn
giáo, tín ngưỡng.
Việt
Nam cần ý thức sâu sắc về những di sản quý giá này. Trong bối cảnh hiện nay,
khi đạo đức xã hội nhiều dấu hiệu suy thoái, xuống cấp, củng cố đức tin vào những
giá trị cao đẹp, hướng thiện là việc mà văn hóa tâm linh có những đóng góp tích
cực, hiệu quả.
Đáp
ứng nhu cầu của đời sống tâm linh và góp phần căn chỉnh những hành vi lệch
chuẩn, các di sản văn hóa tâm linh cần được xem là nguồn tài nguyên vô giá và vô
tận. Nhiều công trình tôn giáo là kiến trúc độc đáo mời gọi du khách trong và
ngoài nước đến chiêm bái, thưởng lãm. Nghi thức, lễ hội của nhiều tôn giáo tín
ngưỡng hoàn toàn có thể trở thành những sản phẩm văn hóa độc đáo thu hút khách
du lịch.
Quan
trọng là phải nghiên cứu để loại bỏ hủ tục, chống khuynh hướng lợi dụng tôn
giáo tín ngưỡng cổ súy mê tín, dị đoan, buôn bán thần thánh, khiến văn hóa tâm
linh mất đi vẻ đẹp nhân văn và thánh thiện. Để làm việc này cần có sự phối kết
hợp chặt chẽ ba nhà: nhà quản lý, nhà khoa học và nhà đầu tư. Nhất thiết coi
phát huy văn hóa tâm linh là một trong những nội dung quan trọng của sự nghiệp
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững,
là sức mạnh mềm của quốc gia./.
St
Đăng nhận xét