Tuyên ngôn Quốc tế về quyền con người (UDHR) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1948 khẳng định: “Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi".
Là một đất nước đã
phải trải qua những năm dài bị đô hộ, chiến tranh tàn phá, dân tộc Việt Nam
hiểu hơn ai hết giá trị, khát vọng để giành lại những quyền cơ bản vốn có của
con người. Bởi thế, mọi sự xuyên tạc, vu khống, chống phá Việt Nam về vấn đề
nhân quyền đều trở nên lạc lõng. Không thế lực bên ngoài nào có quyền ban phát,
hay từ chối thành tựu lớn lao về quyền con người của dân tộc Việt Nam.
Bài 1: Sự áp đặt khiên
cưỡng và xa lạ
Quyền con người là
thành tựu chung của nhân loại và luôn là khát vọng cháy bỏng của con người dù
bất kể chế độ chính trị nào.
Dù vậy, đã từ lâu, chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lại sử dụng quyền con người như một vũ
khí lợi hại để chống phá Việt Nam, mà thực chất là muốn xóa bỏ vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, phá bỏ con đường mà nhân dân Việt Nam đã lựa chọn.
Thành tựu không phải
của riêng phương Tây
“Lập lờ đánh lận con
đen”, các thế lực thù địch chống phá, xuyên tạc sự thật về tự do, dân chủ ở
Việt Nam tự cho rằng: “Quyền con người là thành tựu riêng có của phương Tây”...
Từ sự nhận xằng đó, họ áp đặt “các giá trị phổ quát”, lấy nhân quyền cao hơn
chủ quyền để ra điều kiện với Việt Nam với ý đồ chống phá chứ không phải vì mục
tiêu là sự tiến bộ.
Điều đương nhiên,
không phải chỉ đến cách mạng tư sản với sự ra đời của nhà nước tư sản mới có
quyền con người. Thực chất, quyền con người xuất hiện từ khi con người ý thức
về sự tồn tại của mình và ý thức về nhu cầu, lợi ích cá nhân trong các quan hệ
xã hội.
Tư tưởng và nội hàm về
quyền con người đã xuất hiện từ sớm và tồn tại trong mọi nền văn hóa. Về bản
chất, quyền con người là các quyền bẩm sinh thuộc sở hữu vốn có của mọi người,
nó gắn liền với hành động công nhận, thừa nhận chứ không phải là ban phát, từ
chối hay tước đoạt vô cớ. Nó bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người,
đó là các quyền và tự do cơ bản của con người trên lĩnh vực quyền dân sự, chính
trị; quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Lịch sử phát triển của xã hội, xét đến
cùng đều là lịch sử đấu tranh vì quyền con người. Điều đó càng khẳng định chân
lý, quyền con người là giá trị chung của nhân loại.
Khẳng định như vậy có
ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó chỉ ra nguồn gốc của quyền con người. Tuy vậy,
thuật ngữ “quyền con người” ra đời khá muộn, gắn liền với cuộc cách mạng tư sản
nên nó thường bị lợi dụng để gây hiểu lầm rằng nó là thành tựu của riêng phương
Tây.
Chúng ta có đầy đủ cơ
sở để bác bỏ quan điểm sai trái, coi quyền con người là phát kiến, là giá trị
riêng có của các nước phương Tây. Đây cũng là cơ sở để góp phần khắc phục các
biểu hiện phiến diện, cực đoan, quay lưng, khước từ những giá trị tiến bộ, văn
minh hoặc chấp nhận sự áp đặt mô hình của nước này cho nước khác.
Lịch sử đã chứng minh,
những tư tưởng về quyền con người cũng như những quy định trong luật pháp và
kết quả đạt được về quyền con người là thành quả đấu tranh lâu dài, gian khổ
của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức, qua mọi thời kỳ phát triển.
Đó cũng là thành quả
của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên; qua đó, quyền con người
trở thành giá trị chung của nhân loại. Vì là giá trị chung của nhân loại nên
tất cả các quốc gia, dân tộc không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát
triển đều có quyền thụ hưởng và có nghĩa vụ bảo vệ, phát triển giá trị xã hội
cao quý này.
Áp đặt là vô nghĩa
Áp đặt tiêu chuẩn dân
chủ, nhân quyền phương Tây trên phạm vi toàn cầu nói chung và với Việt Nam nói
riêng là cách thức rất vô lý và hoàn toàn không phù hợp với thực tiễn. Ngay
trong Hiến chương Liên hợp quốc cũng nhấn mạnh: Không quốc gia nào, kể cả Liên
hợp quốc, có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền quốc gia.
Vậy mà, một số nước phương Tây lại tự cho mình có quyền áp đặt các “giá trị
phương Tây” nhằm tác động vào việc xây dựng pháp luật, hoàn thiện thể chế, thúc
đẩy phát triển xã hội dân sự, nhằm tạo ra lực lượng đối trọng với Chính phủ
Việt Nam thì thật khó chấp nhận.
Một số nước này luôn
sử dụng “tiêu chuẩn kép” về quyền con người. Họ áp đặt quan điểm “quyền con
người phổ quát” nhưng theo kiểu “nhân quyền cao hơn chủ quyền”. Trong các chiêu
bài áp đặt, họ luôn kêu gọi, khuyến khích các đòi hỏi cực đoan, hành vi vi phạm
pháp luật, chống đối chính quyền thông qua các hình thức “bất tuân dân sự”,
“kiến nghị tập thể”, “đấu tranh bất bạo động”... nhằm phá hoại sự ổn định và
phát triển của Việt Nam.
Thực tiễn đang chứng
minh một nghịch lý, trong khi không ngừng thúc ép các quốc gia khác, trong đó
có Việt Nam cải thiện nhân quyền, nhưng ở chính nội tại một số nước đó vẫn áp
dụng chính sách phân biệt đối xử. Có những nước lớn luôn tỏ ra quan tâm quá mức
đến nhân quyền ở các nước khác thì sự bất công về phân biệt đối xử giữa người
da trắng và người da đen chưa bao giờ chấm dứt. Hố sâu phân hóa giàu nghèo đang
ngày càng xa hơn.
Trong khi những tỷ phú
đô la ở nước đó có quyền năng rất lớn thì rất nhiều người sống trong nghèo khổ;
nhiều con người vẫn bị tước đoạt mạng sống bởi tình trạng súng đạn mất kiểm
soát. Thậm chí có những nước lớn đến nay vẫn chưa phê chuẩn một số công ước
quốc tế quan trọng về quyền con người, trong đó có Công ước quốc tế về quyền
trẻ em năm 1989 (CRC).
Một số nước phương Tây
hiện nay vẫn đang sử dụng hình thức viện trợ, hợp tác để công khai lôi kéo và
hỗ trợ cho hoạt động đối lập, bất đồng chính kiến ở Việt Nam, thậm chí đưa các
yêu sách cải thiện nhân quyền thành điều kiện cho hợp tác song phương và đa
phương là vô lý. Các nước trên thế giới ở những trình độ phát triển khác nhau
nên không thể lấy giá trị, tiêu chuẩn của nước này áp đặt cho nước khác.
Trong xã hội còn giai
cấp, còn nhà nước thì một vấn đề tất yếu là quyền con người mang tính giai cấp
sâu sắc. Chỉ thị số 12/CT/TW của Ban Bí thư ngày 12-7-1992 “về vấn đề quyền con
người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta” khẳng định: “Trong xã hội có phân
chia giai cấp đối kháng, khái niệm nhân quyền mang tính giai cấp sâu sắc”.
Bởi vậy, việc áp đặt
tiêu chuẩn của một nước này cho một nước khác về các tiêu chí nhân quyền là
hoàn toàn vô lý. Trên phạm vi quốc tế, tính giai cấp của khái niệm quyền con
người được thể hiện trong cuộc đấu tranh giữa lực lượng cách mạng, tiến bộ với
các lực lượng phản động, phản tiến bộ. Ngày nay nó được biểu hiện chính là dưới
hình thức thúc đẩy chiến lược “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn, lật đổ...
Bảo đảm quyền con
người trước hết và chủ yếu thuộc trách nhiệm của mỗi quốc gia. Trách nhiệm pháp
lý này đã được Liên hợp quốc quy định trong các văn kiện quyền con người quốc
tế. Dù đã được quốc tế hóa nhiều mặt, nhưng việc bảo đảm quyền con người chủ
yếu vẫn thuộc thẩm quyền của các quốc gia. Sự hợp tác trên lĩnh vực quốc tế về
quyền con người là rất quan trọng, vì có thể bổ sung thêm nguồn lực và kinh
nghiệm trong việc bảo đảm quyền con người. Tuy nhiên, các cơ chế quyền con
người quốc tế chỉ nhằm bổ sung chứ không thể thay thế các cơ chế đang vận hành
tại các quốc gia.
Đối với việc bảo đảm
các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, trách nhiệm của quốc gia càng rõ ràng,
không bất cứ một quốc gia hay tổ chức quốc tế nào có thể đảm đương được công
việc bảo đảm các quyền này thay cho mỗi nhà nước. Đây là những nguyên tắc cần
được nhận thức rõ ràng, đầy đủ. Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là đòi hỏi
hàng đầu trong việc bảo đảm và thực thi quyền con người.
Một yếu tố quan trọng
khác trong xem xét vấn đề quyền con người, đó là phải đặt nó trong bối cảnh
lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn
hóa của đất nước đó. Chính điều này đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận thông
qua Tuyên bố Vienna và Chương trình Hành động tại Hội nghị thế giới về nhân
quyền năm 1993 tại Vienna (Áo).
Tuyên bố đã khẳng định
khi xem xét vấn đề nhân quyền phải luôn ghi nhớ tính đặc thù dân tộc, khu vực
và bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn hóa và tôn giáo... Như vậy, không thể áp
đặt hay sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô thức của nước này cho nước khác.
Việc một số nước nào
đó tự cho mình quyền áp đặt chuẩn mực cho quốc gia khác, rồi lại tự cho phép
mình bảo vệ quyền con người ở mọi nơi theo ý đồ của họ, bất chấp chủ quyền của
các quốc gia đó là điều không thể chấp nhận. Quyền con người là giá trị được
kết tinh từ những thành tựu, kinh nghiệm đặc sắc trong lịch sử, truyền thống,
văn hóa của mỗi quốc gia.
Tính phụ thuộc của
quyền con người còn bắt nguồn từ sự phát triển không đều về mọi mặt của thế
giới, nên quyền con người cũng không thể được đáp ứng như nhau giữa các quốc
gia, mà phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi
nước. Việt Nam đã tiệm cận rất rõ quan điểm này từ sớm, thể hiện trong Chỉ thị
số 12/CT/TW của Ban Bí thư ngày 12-7-1992: “Nhân quyền luôn luôn gắn liền với
lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của
đất nước. Do vậy, không thể áp đặt hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô
thức của nước này cho nước khác”.
Chính trong hệ thống
pháp luật quốc tế về quyền con người cũng cho phép một quốc gia bảo lưu những
điều khoản cụ thể khi tham gia một công ước, hoặc có các nghị định thư bổ sung
cho một công ước nào đó, thể hiện việc chưa ngang bằng giữa các quốc gia.
Mỗi quốc gia có quyền
lựa chọn các giải pháp tối ưu cho việc cân bằng giữa ổn định xã hội với việc
bảo đảm đầy đủ quyền con người, có quyền xây dựng lộ trình trong việc thực hiện
cam kết đối với các điều ước quốc tế về quyền con người. Như vậy mọi sự sao chép,
áp đặt các mô hình dân chủ, quyền con người là không thể chấp nhận.
Mục 7, Điều 1 Hiến
chương Liên hợp quốc khẳng định: “... Hoàn toàn không cho phép Liên hợp quốc
được can thiệp vào những công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất cứ
quốc gia nào, và không đòi hỏi các thành viên của Liên hợp quốc phải đưa những
công việc loại này ra giải quyết theo quy định của Hiến chương”.
QĐND
Đăng nhận xét