Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ: Việt Nam thực hiện nghiêm túc, hiệu quả UNCLOS 1982.
Trong
cuộc trả lời phỏng vấn Báo Quân đội nhân dân mới đây, TS Trần Công Trục, nguyên
Trưởng ban Biên giới Chính phủ, cho rằng chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia
là vấn đề nhạy cảm nên thường bị các thế lực thù địch khai thác, lợi dụng nhằm
phá hoại sự ổn định về chính trị-xã hội ở Việt Nam. Bởi vậy, cần kiên trì vạch
trần, phản bác và bác bỏ các luận điệu sai trái về vấn đề này.
Phóng
viên (PV): Từng nhiều năm làm việc liên quan đến vấn đề biên giới, lãnh thổ và
đã tham gia các cuộc đàm phán hoạch định biên giới trên đất liền, đề nghị ông
cho biết những thành quả mà Việt Nam đã đạt được trên lĩnh vực này?
TS
Trần Công Trục: Đến nay, việc giải quyết vấn đề biên giới đất liền giữa Việt
Nam với 3 nước láng giềng có chung đường biên giới là Lào, Trung Quốc và
Campuchia thu được những thành quả rất quan trọng, không chỉ có ý nghĩa về
chính trị trong quan hệ quốc tế hiện nay mà còn có giá trị pháp lý, kinh tế,
quốc phòng, an ninh của quốc gia.
Quá
trình này được triển khai theo nguyên tắc pháp lý mà các bên đã thỏa thuận dùng
làm căn cứ duy nhất để xử lý tất cả nội dung cần thực hiện trong các giai đoạn:
Hoạch định biên giới, phân giới cắm mốc và quản lý biên giới, mốc quốc giới
mới.
Về
giải quyết vấn đề biên giới đất liền với Trung Quốc: Tháng 12-1999, Việt Nam và
Trung Quốc chính thức ký Hiệp ước hoạch định biên giới, được Quốc hội hai nước
phê chuẩn trong năm 2000.
Dựa
vào hiệp ước này, từ tháng 12-2001, hai bên tiến hành phân giới, cắm mốc và đến
cuối năm 2008, công tác phân giới, cắm mốc cơ bản hoàn thành.
Kết
quả, chiều dài biên giới chính xác là 1.449,566km, trong đó có 383,914km đường
biên giới đi theo sông, suối, cắm được 1.970 cột mốc, trong đó có 1.548 cột mốc
chính, 422 cột mốc phụ.
Sau
khi hoàn thành việc phân giới, cắm mốc biên giới đất liền, để hợp tác bảo vệ,
quản lý biên giới và mốc quốc giới, năm 2009, Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp
định quản lý biên giới đất liền Việt Nam-Trung Quốc và Hiệp định về cửa khẩu và
quy chế quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc; năm 2015,
hai bên chính thức ký kết Hiệp định tàu thuyền đi lại tự do ở cửa sông Bắc Luân
và Hiệp định hợp tác, khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch thác Bản Giốc.
Về
giải quyết vấn đề biên giới đất liền với Campuchia: Ngày 27-12-1985, hai bên ký
chính thức Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa Việt Nam và Campuchia.
Ngày 10-10-2005, hai bên ký chính thức Hiệp ước giữa Việt Nam và Campuchia bổ
sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia năm 1985.
Ngày
5-10-2019, tại Hà Nội, hai bên ký chính thức hai văn kiện nhằm ghi nhận khoảng
84% thành quả phân giới, cắm mốc biên giới trên đất liền.
Như
vậy, sau hơn 36 năm đàm phán, hai nước đã có khoảng 84% chiều dài đường biên
giới được phân giới, cắm mốc và được ghi nhận rõ ràng trên hồ sơ pháp lý cũng
như trên thực địa với một hệ thống mốc biên giới khang trang, chính quy, hiện
đại và bền vững. Đến tháng 6-1981, hai bên đã phân giới trên thực địa và cắm
mốc xong 95% đường biên giới Việt Nam-Lào. Ngày 16-10-1987, hai bên đã ký Nghị
định thư bổ sung ghi nhận toàn bộ kết quả công tác phân giới, cắm mốc theo Hiệp
ước bổ sung, kèm theo toàn bộ các văn bản pháp lý của quá trình này, kết thúc
quá trình phân giới, cắm mốc toàn bộ đường biên giới Việt Nam-Lào.
Từ
tháng 5-2008, hai nước chính thức triển khai Kế hoạch tổng thể thực hiện công
tác tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam-Lào nhằm mục đích hoàn
thiện hệ thống mốc quốc giới giữa hai nước theo hướng chính xác, hiện đại, bền
vững và thống nhất trên toàn tuyến biên giới, trong đó ưu tiên cắm mốc ở khu
vực có cửa khẩu và khu vực có đường giao thông thuận lợi đi qua nhằm tăng cường
hợp tác, giao lưu phát triển kinh tế và ổn định trật tự an toàn xã hội vùng
biên giới....
Có
được thành quả nói trên, yếu tố tiên quyết là Việt Nam đã cùng với các quốc gia
láng giềng giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ hoàn toàn dựa theo các nguyên
tắc hiện hành và phổ biến của luật pháp và thực tiễn quốc tế, theo phương thức
đàm phán hòa bình đã được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc.
PV:
Vậy tại sao vẫn có những người thường xuyên đưa ra những “phán xét” nhằm phủ
nhận hoặc cố tình làm sai lệch những thành quả ấy?
TS
Trần Công Trục: Giải quyết tranh chấp biên giới, lãnh thổ giữa các quốc gia là
vấn đề cực kỳ phức tạp, phụ thuộc vào quá trình hình thành các quốc gia theo sự
biến động không ngừng của luật pháp và tập quán quốc tế, qua các giai đoạn phát
triển của lịch sử nhân loại.
Lãnh
thổ, biên giới quốc gia đã trở thành vấn đề thiêng liêng, rất nhạy cảm và luôn
được quan tâm đặc biệt bởi mọi tầng lớp nhân dân. Vì vậy, đây là một trong
những nội dung thường được các thế lực thù địch khai thác, lợi dụng nhằm rắp
tâm phá hoại sự ổn định về chính trị-xã hội ở Việt Nam.
Các
đối tượng này đã và đang sử dụng nhiều hình thức và thủ thuật rất tinh vi, xảo
hoạt, cố tình tung ra những thông tin và những tư liệu lịch sử, kỹ thuật không
có tính pháp lý để "mê hoặc" và đánh lừa dư luận.
Cũng
cần nói thêm rằng, muốn giải quyết được vấn đề biên giới, bảo vệ sự toàn vẹn
lãnh thổ quốc gia, đòi hỏi phải kiên trì, bền bỉ và dựa trên tinh thần hết sức
cầu thị, cái gì đúng thì chúng ta kiên quyết bảo vệ; cái gì sai chúng ta phải
điều chỉnh.
Có
như vậy đàm phán mới có kết quả, nguyên tắc pháp lý mới được tôn trọng. Thực tế
cho thấy, đại đa số người dân cũng như công luận quốc tế, khu vực và ngay cả
các quốc gia láng giềng tham gia đàm phán với chúng ta đều hoan nghênh thái độ
cầu thị này.
Cá
nhân tôi mong muốn thông qua quá trình trao đổi, đối thoại để thu hẹp khoảng
cách trong nhận thức xã hội về vấn đề biên giới, lãnh thổ quốc gia, tạo nên sự
đồng thuận, củng cố sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sự đồng lòng, giúp sức của
người dân, bạn bè quốc tế trong công cuộc bảo vệ chủ quyền và các quyền hợp
pháp của quốc gia, dân tộc.
PV:
Nhắc đến bảo vệ chủ quyền, biên giới quốc gia không thể không nhắc tới vai trò
của người dân, đặc biệt là người dân ở khu vực giáp biên. Theo ông, vai trò đó
cần được phát huy bằng cách nào?
TS
Trần Công Trục: Muốn bảo vệ, quản lý biên giới hiệu quả và vững bền thì phải
dựa vào dân, lấy nhân dân làm trung tâm trong phát triển kinh tế, ổn định chính
trị-xã hội ở biên cương. Vì vậy, phải ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần, văn hóa, xã hội nơi vùng cao, biên giới. Đó
cũng là một trong những chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Bên
cạnh đó, để phát huy vai trò của người dân trong bảo vệ, quản lý biên giới
không thể chỉ dừng lại ở những chỉ thị, nghị quyết mà điều cốt lõi là phải bằng
những việc làm cụ thể, thiết thực, thông qua các kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội thực tế và khả thi. Trước hết, cần phải đổi mới nhận thức và thay đổi tư
duy về công tác quản lý biên giới sao cho phù hợp với những biến đổi về kinh
tế-xã hội và quan hệ chính trị quốc tế hiện nay.
Cùng
với sự phát triển của quan hệ quốc tế trong kỷ nguyên hội nhập, hợp tác, phát
triển vì lợi ích chung của nhân loại, việc bảo vệ, quản lý biên giới cũng đã có
chuyển biến mới về tư duy và phương thức hành xử trên thực tế.
Một
mặt phải có chính sách khuyến khích người dân ra sinh sống, phát triển kinh tế,
củng cố quốc phòng, an ninh, củng cố chính hệ thống chính trị ở khu vực biên
giới một cách ổn định, bền vững, lâu dài; mặt khác cũng cần tỉnh táo, cảnh giác
với chiến lược “sức mạnh mềm”, “biên giới mềm” đã và đang triển khai dưới nhiều
hình thức khác nhau.
PV:
Hiện nay, trên mạng xã hội xuất hiện nhiều thông tin, ý kiến mang tính quy
chụp, sai lệch và đi ngược với quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt
Nam trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Ông nghĩ sao về vấn đề này?
TS
Trần Công Trục: Đúng là hiện nay, trên mạng xã hội vẫn còn những ý kiến băn
khoăn, thậm chí phủ nhận hoặc cố tình xuyên tạc những thành quả của quá trình
giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam với các nước láng giềng.
Đối
tượng đưa ra những ý kiến kiểu này có thể được chia thành 3 nhóm: Các thế lực
phản động, chống phá, âm mưu lật đổ Đảng và Nhà nước Việt Nam; các phần tử cơ
hội chính trị thường dùng thủ đoạn bôi nhọ hòng hạ thấp vai trò, uy tín của một
số lãnh đạo Đảng và Nhà nước; cán bộ, nhân dân xuất phát từ động cơ luôn quan
tâm và đau đáu với vấn đề lãnh thổ, biên giới quốc gia, song lại thiếu thông
tin và bị ảnh hưởng tiêu cực bởi các thông tin sai lệch đang lan tràn trên các
trang mạng xã hội.
Đáng
chú ý, nhóm đối tượng thứ nhất và thứ hai đang lợi dụng tính phức tạp, nhạy cảm
của vấn đề biên giới, lãnh thổ quốc gia để phục vụ cho mục đích chính trị đen
tối.
Thường
thì các đối tượng này sử dụng vấn đề biên giới, lãnh thổ, cùng với vấn đề tôn
giáo, sắc tộc, nhân quyền để kích động, lôi kéo công chúng nhằm mục đích chia
rẽ khối đoàn kết dân tộc, chia rẽ lãnh đạo Đảng, Nhà nước với nhân dân, chia rẽ
mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng, từ đó tạo nên môi trường xã
hội, chính trị bất ổn để dễ bề thực hiện mưu đồ chính trị của mình.
Với
nhóm đối tượng này, chúng ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác, có biện pháp ngăn
chặn và vạch trần những sai trái trong các luận điệu của họ, nhất là những luận
điệu núp dưới hình thức là những thông tin, công trình nghiên cứu khoa học, kỹ
thuật...
Các
cơ quan truyền thông và các cơ quan chức năng cũng cần phải đẩy mạnh hơn nữa
công tác tuyên truyền, cung cấp một cách công khai, minh bạch những thông tin
có liên quan đến quá trình giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ quốc gia; kịp
thời phản biện, ngăn chặn những thông tin giả...
Đồng
thời, mỗi người dân phải luôn tỉnh táo, không để dễ dàng bị "mê hoặc"
bởi những luận điệu xuyên tạc như đã nói ở trên.
PV:
Trân trọng cảm ơn ông!
Đăng nhận xét