Trải qua 95 năm lãnh đạo và đồng hành cùng dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức và không ngừng trưởng thành, lớn mạnh. Trong tiến trình đó, sứ mệnh của Đảng luôn vấp phải sự phản đối, chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động. Song, những thành tựu to lớn mà đất nước ta, nhân dân ta đạt được từ khi có Đảng là minh chứng sống động, bác bỏ mọi sự nghi ngờ, xuyên tạc về vai trò lãnh đạo của Đảng.
Tháng 2/2025, toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta hân hoan, tự hào kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam, song chúng ta không quên chỉ rõ một trong những yếu tố
cản trở tiến trình đi lên của dân tộc, đó chính là âm mưu, thủ đoạn chống phá,
xuyên tạc về vai trò của Đảng đối với sự phát triển của đất nước của các thế
lực thù địch. Hoạt động này đã diễn ra ngay từ ngày thành lập Đảng cho đến nay,
và chắc chắn sẽ còn tiếp diễn với những thủ đoạn tinh vi hơn trong thời gian
tới, bất chấp những thành tựu to lớn, vượt bậc trên mọi lĩnh vực mà đất nước ta
đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng! Mục đích cuối cùng của chúng là nhằm xóa
bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
Về kinh tế. Họ đưa ra
nhiều chỉ trích dưới các góc độ khác nhau, song tựu chung lại là luận điệu cho
rằng: vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nguyên nhân khiến nền kinh
tế chậm phát triển, thua kém các nước trong khu vực! Luận điệu này rõ ràng mang
tính phiến diện và thiếu thực tế. Bởi, mặc dù phải trải qua các cuộc chiến
tranh vô cùng ác liệt để giành độc lập cho đất nước, nền kinh tế sau chiến
tranh gần như kiệt quệ, nhưng trong gần 40 năm qua, kinh tế Việt Nam đã vươn
lên mạnh mẽ và đầy ấn tượng, luôn duy trì tốc độ tăng trưởng GDP trung bình
khoảng 6 - 7%/năm, thuộc nhóm các quốc gia tăng trưởng nhanh nhất thế giới. GDP
bình quân đầu người tăng mạnh, từ khoảng 100 USD vào năm 1990 lên 4.700 USD
(theo sức mua tương đương) vào năm 2024, đưa Việt Nam từ quốc gia nghèo thành
nước đang phát triển, có thu nhập mức trung bình; quy mô nền kinh tế đứng thứ
34 thế giới. Các tổ chức quốc tế dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong
năm 2025 tiếp tục thuộc nhóm các nền kinh tế có tăng trưởng cao trên thế giới.
Việt Nam từ chỗ thiếu lương thực đã trở thành một trong những quốc gia xuất
khẩu nông sản lớn nhất thế giới, đặc biệt là gạo, cà phê, hạt điều, thủy sản và
hồ tiêu. Các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và công nghệ cao phát triển
mạnh mẽ. Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất điện tử lớn, thu hút được nhiều
tập đoàn xuyên quốc gia, như: Samsung, Intel, LG, v.v. Gần đây nhất, Chính phủ
Việt Nam và Tập đoàn NVIDIA (Tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới trong lĩnh
vực trí tuệ nhân tạo và bán dẫn hiện nay) đã ký kết thỏa thuận hợp tác. Sự kiện
này được đánh giá mang tính bước ngoặt lịch sử, dấu mốc quan trọng, mở ra cơ
hội để Việt Nam trở thành Trung tâm Nghiên cứu và phát triển (R&D) về trí
tuệ nhân tạo hàng đầu châu Á, tạo đột phá cho các ngành công nghệ then chốt và
mở rộng cơ hội nghề nghiệp cho nguồn nhân lực trong nước.
Đó chỉ là một vài
trong số rất nhiều những con số thực tế về sự phát triển của nền kinh tế Việt
Nam đã được quốc tế ghi nhận và công bố rộng rãi. Vậy, điều gì đã khiến một nền
kinh tế bước ra từ chiến tranh và chịu bao vây cấm vận suốt thời gian dài lại
có thể bứt phá ngoạn mục như thế? Câu trả lời xác đáng nhất chỉ có thể là từ
vai trò lãnh đạo của Đảng cùng với niềm tin và nỗ lực của toàn dân, của cả hệ
thống chính trị. Cốt lõi nằm ở quá trình chuyển đổi thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là sự đột phá tư duy lý luận của
Đảng, là kết quả của quá trình tìm tòi, thể nghiệm lâu dài và đã khẳng định sự
đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển. Vừa bảo đảm thực hiện mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa tăng tốc bứt phá mạnh mẽ và hội nhập kinh
tế quốc tế sâu rộng. Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam không những không kìm hãm
mà còn chính là nhân tố quyết định, thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển vượt
bậc.
Đối với các vấn đề xã
hội. Các thế lực thù địch luôn cho rằng, dưới sự lãnh đạo “độc tôn” của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đời sống nhân dân gặp khó khăn, nghèo đói, mất quyền tự do,
dân chủ,... nhưng thực tế hoàn toàn không phải như vậy. Với quan điểm con người
là trung tâm của sự phát triển, nhất quán mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”, Đảng đã luôn quan tâm chú trọng lãnh đạo xây dựng
các chính sách an sinh xã hội nhằm giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng
giáo dục, y tế và đời sống mọi mặt của người dân. Nhờ đó, Việt Nam đã giảm mạnh
tỷ lệ nghèo từ hơn 60% (đầu thập niên 1990) xuống còn dưới 2% vào năm 2023
(theo chuẩn nghèo đa chiều); là một trong những quốc gia giảm nghèo nhanh nhất.
Thành tựu giảm nghèo của Việt Nam được Ngân hàng Thế giới (WB) và các tổ chức
quốc tế đánh giá cao, trở thành mô hình tham khảo cho các nước đang phát triển.
Về giáo dục, Đảng ta luôn xác định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu”, trên cơ sở đó, đã tiến hành phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở
trên toàn quốc, đảm bảo mọi trẻ em đều có cơ hội đi học. Nếu như năm 1945, trên
90% dân số Việt Nam mù chữ (hệ lụy từ chính sách ngu dân của thực dân Pháp), thì
đến năm 2023, tỷ lệ người đạt chuẩn biết chữ trong độ tuổi từ 15 - 60 tại Việt
Nam đạt 98,85% ở mức độ 1. Đó là bước tiến quan trọng, không thể phủ nhận.
Cùng với đó, các quyền
bầu cử, tự do tín ngưỡng, tự do báo chí và tự do ngôn luận được bảo đảm trong
khuôn khổ pháp luật. Các cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân đã tạo điều
kiện để người dân tham gia trực tiếp vào đời sống chính trị. Dân chủ ở Việt Nam
mang tính tập trung, bảo đảm lợi ích chung của toàn xã hội, thay vì chạy theo
các hình thức dân chủ hình thức hoặc lợi ích cục bộ. Điều 24, Hiến pháp năm
2013 khẳng định rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào” và “Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”. Luật
Tín ngưỡng, tôn giáo (2016) cụ thể hóa các quyền này, tạo hành lang pháp lý để
người dân thực hiện tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật. Hiện
nay, Việt Nam có khoảng 26 triệu tín đồ tôn giáo, chiếm gần 27% dân số cả nước.
Có 43 tổ chức tôn giáo, đại diện cho 16 tôn giáo khác nhau, được Nhà nước công
nhận hoặc cấp đăng ký hoạt động. Các tôn giáo đều có điều kiện phát triển thuận
lợi. Sự tồn tại và phát triển rất phong phú, đa dạng của các tôn giáo là minh
chứng cho việc Nhà nước Việt Nam không những không “đàn áp” như các thế lực thù
địch rêu rao, mà còn tạo điều kiện tốt nhất để các tôn giáo cùng đồng hành với
dân tộc. Về điều kiện tiếp cận thông tin, theo thống kê, đến đầu năm 2024, Việt
Nam có 78,44 triệu người dùng Internet (chiếm 79,1% dân số); 73,3% dân số sử
dụng mạng xã hội, xếp thứ 13 thế giới về số lượng người dùng; có tổng cộng
168,5 triệu kết nối di động đang hoạt động, v.v. Những số liệu này là rõ ràng,
không chỉ minh chứng sự phát triển vượt bậc của Việt Nam, mà còn vạch rõ bộ mặt
“giả tạo” của những kẻ luôn “lo” cho người dân Việt Nam “mù thông tin”!
Vị thế và uy tín quốc
tế của Việt Nam là minh chứng rõ nét đập tan luận điệu cho rằng Việt Nam lệ
thuộc vào nước khác, hay Việt Nam bị cô lập vì chỉ có một đảng duy nhất lãnh
đạo! Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến mau lẹ, phức tạp, khó lường,
khó đoán định, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán, kiên trì thực hiện đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; là bạn tốt, là đối tác tin cậy, là
thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế vì mục tiêu hòa bình,
hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới, v.v. Nhờ đó, vị thế của đất
nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Từ một nước bị bao vây, cấm
vận kéo dài trong 30 năm, đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với
194 quốc gia; quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 10 nước (Trung Quốc,
Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia, Pháp, Malaysia, New
Zealand). Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc năm 1977, hiện đóng vai trò quan
trọng trong nhiều chương trình, tổ chức của Liên hợp quốc. Là thành viên của
nhiều tổ chức lớn, như: ASEAN, APEC, WTO, CPTPP, RCEP,... giúp Việt Nam hội
nhập sâu vào khu vực và thế giới. Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch
ASEAN (năm 2020), tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN trực tuyến trong
đại dịch COVID-19. Đặc biệt, Việt Nam trúng cử vị trí Ủy viên không thường trực
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (2008 - 2009, 2020 - 2021) với số phiếu tín nhiệm
cao. Cùng với đó, Việt Nam cũng đóng góp tích cực vào hòa bình và an ninh thế
giới. Tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc từ năm 2014, cử nhiều
sĩ quan tham gia các phái bộ tại Nam Sudan và Trung Phi. Đăng cai tổ chức Hội
nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều (năm 2019), thể hiện vai trò trung gian ngoại giao
tin cậy. Giữ vững lập trường trong vấn đề Biển Đông, thúc đẩy giải quyết tranh
chấp bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, v.v. Có thể nói rằng,
vị thế, uy tín quốc tế của đất nước có được là nhờ rất nhiều yếu tố, song suy
đến cùng vẫn là vai trò lãnh đạo, đặc biệt là đường lối đối ngoại độc đáo của
Đảng.
Sự ổn định chính trị ở
Việt Nam khẳng định rõ nét vai trò lãnh đạo của Đảng. Việt Nam được đánh giá là
một trong những quốc gia có nền chính trị ổn định nhất thế giới, đặc biệt ở khu
vực Đông Nam Á. Sự ổn định này đã góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế
- xã hội, thu hút đầu tư và nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế. Có
được điều này là do Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững vị thế lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Sâu xa, cốt lõi nhất là do Đảng có được uy tín rất cao đối với
nhân dân. Suốt chặng đường 95 năm qua, sự lãnh đạo của Đảng luôn là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam và Đảng không có mục tiêu nào
khác ngoài độc lập cho dân tộc, hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Nhân dân là
người hiểu hơn ai hết điều đó. Chính nhờ niềm tin của nhân dân đối với Đảng mà
mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia
rẽ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước đều thất bại. Niềm tin của nhân
dân không chỉ là một tài sản chính trị to lớn, mà còn là cơ sở vững chắc để
Đảng tiếp tục lãnh đạo và đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới của
dân tộc. Đây cũng là câu trả lời đanh thép cho luận điệu của một số người cho
rằng: “Đảng không đại diện cho lợi ích của toàn dân, mà chỉ bảo vệ quyền lợi
cho một nhóm nhỏ các lãnh đạo hoặc đảng viên”.
Những thành tựu mà đất
nước ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng trong suốt 95 năm qua là vô cùng to
lớn. Phạm vi bài viết chưa thể đề cập toàn diện và sâu sắc. Tuy nhiên, những
vấn đề nêu trên cũng đủ để khẳng định rằng, việc phủ nhận vai trò của Đảng là
không có cơ sở thực tiễn, lịch sử và chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang
và sẽ mãi là nhân tố quyết định để đưa đất nước phát triển hùng cường, thịnh
vượng./.
Tạp chí Quốc phòng
toàn dân
.jpg)
Đăng nhận xét