Chiến tranh ủy nhiệm (proxy war) là loại hình chiến tranh được tiến hành bằng cách thông qua lực lượng của một hoặc nhiều nước khác, hay các tác nhân phi nhà nước (còn gọi là chiến tranh qua tay người khác). Loại hình chiến tranh này đang được một số nước, đứng đầu là Mỹ coi trọng sử dụng để can dự vào các cuộc xung đột nhằm đạt mục tiêu chiến lược mà không sử dụng lực lượng trực tiếp tham chiến.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
CHIẾN TRANH ỦY NHIỆM
Trong lịch sử chiến
tranh thế giới, chiến tranh ủy nhiệm có mầm mống từ rất sớm. Tuy nhiên, đến thế
kỷ 20, nó mới trở thành một loại hình chiến tranh có tính phổ biến. Điển hình,
trong những năm đầu của Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, Mỹ tuyên bố trung
lập, nhưng đã cung cấp vũ khí, trang bị ồ ạt cho quân đồng minh nhằm thực hiện
mục đích can thiệp vào các sự kiện tại châu Âu theo hướng có lợi cho Mỹ. Trong
Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, Mỹ vẫn theo đuổi chiến lược tương tự cho đến
năm 1941. Từ năm 1950, loại hình chiến tranh ủy nhiệm được định hình rõ nét hơn
thông qua những quan điểm, học thuyết (tiêu biểu là “Học thuyết Truman”1) và
được Mỹ áp dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới, mang đến những hệ lụy vô cùng
nguy hiểm, phức tạp. “Học thuyết Truman” đã đề cập những nội dung cơ bản của
chiến tranh ủy nhiệm, với các phương thức tiến hành là: bảo đảm quân sự (bảo
đảm hậu cần, chỉ huy kiểm soát, vận tải, bảo dưỡng, cấp dưỡng và hỗ trợ kỹ
thuật); cố vấn quân sự (huấn luyện, truyền đạt kinh nghiệm); viện trợ quân sự
(cung cấp vũ khí, trang bị quân sự); bảo đảm an ninh (bảo vệ, bảo đảm an toàn
cho các cá nhân lãnh đạo của lực lượng được ủy nhiệm), v.v.
Thực tiễn từ sau những
năm 1950 đến nay, đã diễn ra nhiều cuộc chiến tranh ủy nhiệm do chủ nghĩa đế
quốc, đứng đầu là Mỹ tiến hành. Điển hình là Chiến lược chiến tranh đặc biệt
của Mỹ (1961 – 1965) trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, với công thức “Cố vấn
Mỹ + vũ khí Mỹ + Quân đội ngụy quyền Sài Gòn”. Thời gian gần đây, loại hình
chiến tranh ủy nhiệm được Mỹ và các nước phương Tây sử dụng phổ biến hơn (nhất
là trong các cuộc xung đột ở khu vực Trung Đông, Bắc Phi), nhằm mở rộng lợi ích
của họ tại các khu vực này nhưng không sử dụng lực lượng quân đội trực tiếp
tham chiến. Theo đó, Mỹ đã cung cấp vũ khí, trang bị, hậu cần, tài chính, tin
tức tình báo,… cho lực lượng đối lập ở một loạt các quốc gia để lật đổ chế độ
đương nhiệm. Tại Somali, Mỹ đã tiến hành chiến dịch chống lại lực lượng du kích
Hồi giáo thông qua các hoạt động tình báo, huấn luyện cho các đặc vụ người
Somali, sử dụng chính những người châu Phi để tiến hành chiến tranh ủy nhiệm
hoàn toàn theo cách cổ điển. Bên cạnh đó, cũng có trường hợp Mỹ tiến hành chiến
tranh ủy nhiệm song song với can thiệp quân sự trực tiếp, như: Chiến dịch lật
đổ Tổng thống Gaddafi của Libya năm 2011. Tại Syria, quốc gia đang phải đối mặt
với một cuộc chiến tranh ủy nhiệm kể từ khi nội chiến bùng nổ, các nhóm nổi dậy
được Mỹ, phương Tây và một số nước Ả Rập viện trợ vũ khí, trang bị, tài chính,…
để chống lại chính quyền của Tổng thống Bashar al-Assad. Đây được xem như một
ví dụ điển hình về chiến tranh ủy nhiệm thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh. Mới đây
nhất, ngày 11/9/2014, tổng thống Mỹ B. Obama đã công bố Chiến lược toàn diện
làm suy yếu và tiêu diệt hoàn toàn IS (Nhóm Nhà nước Hồi giáo tự xưng ở Syria
và Iraq); trong đó, nội dung cốt lõi của Chiến lược là tăng cường hoạt động
quân sự và hỗ trợ các lực lượng đối đầu với IS trên bộ (Quân đội Iraq và lực
lượng người Kurd). Theo nhận định của các chuyên gia nước ngoài, hiện nay, khu
vực châu Phi được xem là nơi triển khai chiến tranh ủy nhiệm hàng đầu của Mỹ.
Nghiên cứu cho thấy,
các cuộc chiến tranh ủy nhiệm là một trong những hình thái mới của chiến tranh
xâm lược. Nó được thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau, song tựu trung có
thể rút ra bốn hình thức cơ bản: cung cấp nhân lực, vũ khí, trang bị, tài chính
và phương tiện phi quân sự (sức mạnh mềm). Trên thực tế, các nước “ủy nhiệm” có
thể sử dụng một hay kết hợp các hình thức trên để hỗ trợ lực lượng “thế thân”
cho họ trong cuộc chiến; trong đó, cung cấp vũ khí, trang bị cho lực lượng
“được ủy nhiệm” là phổ biến nhất. Ngoài ra, các nước “ủy nhiệm” còn cung cấp
thông tin tình báo, hỗ trợ lực lượng “được ủy nhiệm” xây dựng kế hoạch tác
chiến, tiến hành chiến tranh thông tin, tâm lý nhằm bôi nhọ, hạ thấp uy tín và
làm suy yếu sức mạnh chính trị, tinh thần của nước đối tượng tiến hành chiến
tranh ủy nhiệm, v.v.
Từ thực tiễn có thể
rút ra một số điều kiện cơ bản để dẫn tới chiến tranh ủy nhiệm.
Thứ nhất, tình hình
nội bộ quốc gia xuất hiện những mâu thuẫn không điều hòa được, đặc biệt là giữa
nhân dân và chính quyền. Chính quyền đương nhiệm yếu kém, xử lý không tốt các
vấn đề nổi cộm, nhạy cảm hoặc mắc sai lầm nghiêm trọng trong đối phó với biểu
tình, bạo loạn. Các thế lực bên ngoài lợi dụng, kích động biểu tình biến thành
bạo loạn chính trị, thậm chí là bạo loạn có vũ trang, gây ra thương vong lớn,
tạo cớ “can thiệp nhân đạo”, ủng hộ, viện trợ cho lực lượng đối lập gây bạo
loạn.
Thứ hai, một bộ phận
quan chức trong chính quyền “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cùng với lực lượng
biểu tình hình thành lực lượng vũ trang đối lập, đối trọng với chính quyền.
Trong khi đó, chính quyền đương nhiệm chưa coi trọng đúng mức đến xây dựng lực
lượng vũ trang hoặc không có khả năng xây dựng lực lượng này đủ mạnh để bảo vệ
đất nước, bảo vệ chính quyền, dẫn tới mất quyền kiểm soát, không trấn áp được
biểu tình, bạo loạn có vũ trang do phe đối lập tổ chức.
Thứ ba, lực lượng đối
lập được nước ngoài hà hơi tiếp sức, chỉ đạo, hậu thuẫn, viện trợ tài chính, vũ
khí, trang bị, gây ra nội chiến. Đây là cơ sở chủ yếu để bạo loạn chính trị quy
mô lớn phát triển thành chiến tranh ủy nhiệm.
Thứ tư, các thế lực
bên ngoài tiến hành can thiệp quân sự hạn chế để hỗ trợ lực lượng đối lập. Can
thiệp quân sự từ bên ngoài là mục tiêu chính yếu của các nước đế quốc gây chiến
tranh ủy nhiệm. Trên thực tế, việc can thiệp từ bên ngoài hiện nay có đặc điểm
mới, diễn ra phức tạp với nhiều hình thức và cấp độ khác nhau, trên tất cả các
lĩnh vực: chính trị, văn hóa, kinh tế, quân sự và ngoại giao; trong đó, can
thiệp quân sự giữ vai trò quyết định. Mục đích chủ yếu của hoạt động can thiệp
từ bên ngoài nhằm làm suy yếu đối phương về kinh tế, cô lập về chính trị và
ngoại giao; trực tiếp chi viện cho lực lượng đối lập về quân sự, nhất là chi
viện hỏa lực đường không; khi cần thiết và có điều kiện có thể can thiệp trực
tiếp bằng các lực lượng đặc nhiệm, thậm chí bằng cả lực lượng tiến công trên
bộ. Đây là những nấc thang cao nhất, nguy hiểm và quyết định nhất của chiến
tranh ủy nhiệm.
Có thể nói, chiến tranh
ủy nhiệm liên quan mật thiết đến chiến lược “Diễn biến hòa bình”, một thuộc
tính quan trọng trong chiến lược của chủ nghĩa đế quốc, nhằm đạt “mục tiêu kép”
(bảo vệ hay mở rộng lợi ích tại các khu vực trên thế giới; giảm thiểu tổn thất,
thương vong, chi phí tài chính và giải quyết hậu quả chiến tranh) thông qua
phương thức chiến tranh gián tiếp. Trong bối cảnh hiện nay, chiến tranh ủy
nhiệm đã có bước phát triển mới cả về phương thức, thủ đoạn tiến hành, quy mô
lực lượng, đã và đang tạo ra mối nguy hiểm cho nhiều quốc gia, dân tộc, nhất là
các quốc gia có vị trí địa chiến lược, không cùng lợi ích, không chịu đi theo
quỹ đạo của Mỹ và các nước phương Tây. Trong tương lai, loại hình chiến tranh
này sẽ được Mỹ và các nước phương Tây vận dụng phổ biến hơn thay thế cho các
kiểu can thiệp trực tiếp vừa tốn kém lại nhiều rủi ro, đúng như học giả Mỹ
Phi-líp Bóp-bít – chuyên gia về chiến tranh tại Đại học Prin-xe-tô (Mỹ) – kết
luận: “Trong tương lai, việc sử dụng các lực lượng quân sự ủy nhiệm sẽ thay thế
cho các đội quân thường trực tốn kém và có thể giúp kiểm soát thực địa tốt mà
không cần hy sinh nhiều tính mạng của người Mỹ như khi triển khai lực lượng đến
thực địa”.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
PHÒNG, CHỐNG CHIẾN TRANH ỦY NHIỆM
Hiện nay, nguy cơ phải
đối đầu với chiến tranh ủy nhiệm là một thực tế cần quan tâm đối với mỗi quốc
gia khi chủ nghĩa đế quốc đang đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa
bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bằng nhiều thủ đoạn thâm hiểm.
Nhận diện rõ nguy cơ
và để chủ động phòng ngừa có hiệu quả chiến tranh ủy nhiệm cần coi trọng một số
giải pháp chủ yếu sau:
Một là, chú trọng xây
dựng, phát triển đất nước ngay từ trong thời bình, giữ vững ổn định chính trị –
xã hội; đồng thời, chăm lo xây dựng quân đội vững mạnh, trung thành với chế độ,
sẵn sàng bảo vệ vững chắc tổ quốc trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.
Hai là, nắm chắc và dự
báo chính xác tình hình, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn
chiến lược “Diễn biến hòa bình”, nhất là âm mưu thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” của các thế lực thù địch, ngăn ngừa và loại trừ mầm mống ý đồ can
thiệp từ bên ngoài có thể dẫn tới một cuộc chiến tranh ủy nhiệm.
Ba là, tăng cường mọi
mặt tiềm lực của đất nước. Trong đó, tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã
hội theo hướng phát triển bền vững gắn với tăng cường sức mạnh quốc phòng – an
ninh, không để bị cô lập hoặc phụ thuộc vào nước ngoài. Bởi từ chỗ phụ thuộc về
kinh tế sẽ dễ dẫn tới phụ thuộc về chính trị, khi đó sẽ khó giữ được sự ổn định
đất nước và đây sẽ là điều kiện, thời cơ thuận lợi để các thế lực thù địch tạo
cớ can thiệp.
Bốn là, thực hiện
chiến lược đối ngoại khôn khéo, hiệu quả, nhằm xây dựng, giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế của quốc gia trên trường quốc tế. Đây là nội
dung cần đặc biệt quan tâm khi xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế diễn ra
ngày càng sâu rộng; đối thoại, hợp tác, xây dựng và tạo sự tin cậy lẫn nhau
đang là xu thế chủ đạo trên thế giới. Theo đó, cần thực hiện chính sách đối
ngoại rộng mở, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, lợi ích của mỗi quốc gia và tuân thủ luật pháp quốc tế. Trong công
tác đối ngoại coi trọng giải quyết hài hòa mối quan hệ với các nước láng giềng,
khu vực, bạn bè truyền thống và các nước lớn, đối tác quan trọng; xử lý đúng
mối quan hệ “đối tác”, “đối tượng” trên từng lĩnh vực cụ thể, tránh để bị cô
lập, đối đầu.
Năm là, kết hợp chặt
chẽ giữa chủ động phòng ngừa, ngăn chặn với linh hoạt, khôn khéo xử lý mầm mống
của chiến tranh ủy nhiệm. Vấn đề quan trọng là, tuyệt đối không mơ hồ mất cảnh
giác, coi nhẹ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; nâng cao
năng lực quản lý của chính quyền đối với mọi mặt đời sống xã hội, nhất là đối
với các vấn đề nhạy cảm, phức tạp, như: dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo,
v.v. Trên cơ sở đó, tích cực chuẩn bị chu đáo về lực lượng, thế trận, có biện
pháp xử lý đúng đắn, kịp thời những vấn đề bức xúc trong xã hội không để nổi
cộm kéo dài, tạo các “điểm nóng” căng thẳng dẫn đến bùng phát biểu tình, bạo
loạn trên diện rộng. Trường hợp xảy ra bạo loạn, cần phát huy sức mạnh tổng
hợp, linh hoạt, khôn khéo, kiên quyết xử lý không để lan rộng, hình thành lực
lượng đối lập, bạo loạn vũ trang.
Cùng với đó, có các
biện pháp ngăn chặn không để các thế lực thù địch bên ngoài can thiệp, gây ra
“nội chiến” và chuyển thành chiến tranh ủy nhiệm. Quá trình thực hiện, kết hợp
chặt chẽ công tác tuyên truyền, giác ngộ quần chúng với quản lý chặt chẽ các
phương tiện truyền thông, định hướng dư luận, phân hóa kẻ thù với sử dụng các
biện pháp mạnh, kiên quyết, vô hiệu hóa bọn cầm đầu, nhanh chóng ổn định tình
hình, không để kẻ địch bên ngoài tạo cớ can thiệp vũ trang.
Đăng nhận xét