Trong Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, một trong ba anh hùng không chỉ góp phần quan trọng làm nên thắng lợi của trận đánh, mà còn là tấm gương hy sinh ngời sáng về tinh thần gan dạ, kiên cường. Sự hy sinh của anh đã trở thành bất tử trong lòng Nhân dân, được bạn bè thế giới ngưỡng mộ, vinh danh. Tô Vĩnh Diện - người anh hùng quên thân mình cứu pháo lăn xuống vực sâu trong chiến dịch Điện Biên Phủ ngày ấy.
Chèn
lưng cứu pháo
Cho
đến bây giờ sau 68 năm kể từ ngày chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, hình ảnh
anh hùng Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo vẫn mãi kiêu hùng đẹp đẽ. Dẫu đã
trở thành biểu tượng của đức hy sinh quên mình vì dân tộc. Dẫu đã khắc sâu
trong tâm khảm của thế hệ người Việt về hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ của thế kỷ
XX. Song, không phải ai cũng tường tận chuyện anh hùng Tô Vĩnh Diện hy sinh
trong trận chiến đấu khốc liệt ngày ấy thế nào?
66
năm trôi qua, chính sử vẫn còn nguyên vẹn chuyện anh hùng Tô Vĩnh Diện lấy thân
mình chèn pháo được ngợi ca, truyền tụng, mang thông điệp của khát vọng hòa
bình, đại diện cho triệu triệu người dân đất Việt vào giữa thập kỷ 50 của thế
kỷ trước. Ngày ấy, để chi viện cho chiến trường Điện Biên phủ, cùng với các
loại vũ khí như DKZ-82B10, P40, P41, và các loại súng bộ binh như đại liên,
tiểu liên AK, thì hai khẩu pháo lựu loại 105mm và cao xạ 37mm được quyết định
đưa đến chiến trường. Nhưng đưa pháo vào trận địa bằng cách nào vừa bảo đảm an
toàn bí mật, vừa kịp thời gian khẩn trương triển khai đội hình chiến đấu là cả
một kế hoạch hành quân gian khổ. Trong khi đó lực lượng ta mỏng, địa hình hiểm
trở, nhiều dốc cao, vực sâu, rừng rậm chằng chịt và liên tục bị quân địch trinh
thám dò la kiểm soát bằng không quân. Trước tình hình ấy, Bộ Chỉ huy Chiến dịch
quyết định: “Huy động lực lượng tại chỗ, kéo pháo vào trận địa bằng sức người,
hành quân ban đêm, bảo đảm tuyệt mật”. Hai khẩu pháo hạng nặng loại 105mm và
cao xạ 37mm do Liên Xô sản xuất lúc đó được coi là “gia bảo quốc gia” khẩn
trương được chằng dây, ngụy trang cho cuộc hành quân bí mật. Sau 3 ngày vận
chuyển từ Tuần Giáo, Lai Châu, trưa ngày 16/1/1954, hai khẩu pháo được tập kết
tại ki-lô-mét 63, đường 42.
Cuộc
hành quân bắt đầu từ đêm 16/01/1954. Với tinh thần quyết tâm “bằng sức người,
pháo vào trận địa”, các chiến sĩ Điện Biên và công binh sử dụng dây thừng, dây
dù, dây rừng tại chỗ để kéo pháo. Có chỗ phải vượt qua núi cao 1.450m, kéo pháo
lội qua dòng suối chảy xiết do nước mưa rừng đổ về. Mặc cho trời rét căm căm,
mặc cho núi cao, đèo dốc, vực thẳm, rừng chằng chịt, các chiến sĩ Điện Biên vẫn
kiên cường kéo pháo. Tất cả không ai chùn bước.
Trước
tình hình phòng ngự kiên cố của địch, để thay đổi chiến thuật cách đánh, ngày
26/01/1954, Tổng tư lệnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định đổi phương án tác
chiến từ “Đánh nhanh thắng nhanh” sang “Đánh chắc tiến chắc”. Các đơn vị pháo
nhận được mệnh lệnh phối hợp với các đơn vị bộ binh kéo pháo trở ra. Đơn vị của
anh Tô Vĩnh Diện được lệnh kéo pháo ra điểm tập kết tại bản Bắng Hôm để ăn tết
Giáp Ngọ và chờ lệnh mới. Ngày 01/2/1954, đơn vị anh trên đường kéo pháo ra,
đến một con dốc cao và hẹp ở gần Bản Chuối. Anh cùng một pháo thủ phụ trách
điều khiển càng pháo để chỉnh hướng cho một đơn vị bộ đội kéo dây tời giữ pháo,
thì bất ngờ quân Pháp bắn pháo từ Mường Thanh lên. Đơn vị kéo giữ pháo nằm rạp
xuống, đồng thời dây tời bị đứt. Pháo mất đà lăn qua chèn. Chiến sĩ pháo thủ Lê
Văn Chi bị càng pháo hất xuống vực. Pháo tiếp tục mất đà trôi dần về phía sau.
Trước tình thế nguy kịch ấy, anh Tô Vĩnh Diện đã dùng sức cố đẩy để càng pháo
đâm vào vách núi. Tuy cản được pháo lăn xuống vực, nhưng Tô Vĩnh Diện bị bánh
xe của khẩu pháo nặng hơn 2 tấn đè lên người trọng thương. Giây cuối cùng khi
được đồng đội đưa ra để đi cấp cứu, nhưng không kịp. Trước khi hy sinh, câu
cuối anh hỏi đồng đội: “Pháo có việc gì không?”
Thân
thế người anh hùng
Tô
Vĩnh Diện sinh năm 1924 ở thôn Dược Khê, xã Nông Trường, huyện Nông Cống (nay
thuộc huyện Triệu Sơn), tỉnh Thanh Hóa, trong một gia đình làm nông. Cha ông là
Tô Uy - một bần nông 5 đời trong làng Dược Khê. Anh là con trai đầu của gia
đình. Do gia đình nghèo, cuộc sống khó khăn, nên từ năm 8 tuổi, Tô Vĩnh Diện đã
phải đi ở, lớn lên làm tá điền cho nhà địa chủ ở làng bên. Khi Pháp nổ súng tái
chiếm Đông Dương năm 1946, Vĩnh Diện tham gia cách mạng và dần trở thành Chỉ
huy dân quân ở địa phương. Năm 1950, tại Thanh Hóa nổ ra một vụ bạo loạn, anh
bị những người nổi loạn bắt giữ. Sau đó, anh được giải cứu và chính thức nhập
ngũ trong lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Trước
khi hy sinh, anh được cấp trên tin tưởng cho sang Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây (Trung
Quốc) để huấn luyện loại súng lựu cỡ nòng 37mm. Trong thời gian huấn luyện, anh
được chỉ định là Trung đội phó thuộc Đại đội 829, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367
và được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam. Ngày 7/5/1955, Tô Vĩnh Diện được
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trao tặng Huân chương Quân công hạng
Nhì, Huân chương Chiến công hạng Nhất và được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân năm 1956. Hiện nay, mộ anh Tô Vĩnh Diện nằm ở khu đặc
biệt của nghĩa trang Điện Biên cùng với mộ của 3 anh hùng nổi bật khác trong
trận Điện Biên Phủ là Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Trần Can. Một bia tưởng niệm
cũng được dựng lên gần vị trị đường kéo pháo nơi anh hy sinh.
Khẩu
pháo cao xạ 37mm số hiệu 510681 sau đó tiếp tục được đưa vào tham chiến trong
Chiến dịch Điện Biên Phủ, bắn rơi 3 máy bay, bắn bị thương 13 chiếc khác. Năm
1958, khẩu pháo được đưa về trưng bày tại Phòng truyền thống của Bộ Tư lệnh
Phòng không, nay là Bảo tàng quân chủng Phòng không - Không quân. Ngày
01/10/2012, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 1426/QĐ-TTg công nhận pháo cao
xạ 37mm số hiệu 510681 là Bảo vật quốc gia đợt 1.
66
năm đã trôi qua, hành động chèn lưng cứu pháo của anh Tô Vĩnh Diện mãi mãi khắc
sâu vào tim những người lính Cụ Hồ và những người đang sống. Đối với thế hệ trẻ
ngày nay, hành động dũng cảm của anh như một “cú hích” về sự xả thân hy sinh.
Nó sống mãi với thời gian, tươi mới về tinh thần cống hiến và vẹn nguyên giá
trị quên mình vì Tổ quốc.
Đăng nhận xét