Các chuyên gia kinh tế cho biết, nhiều tập đoàn lớn trên thế giới đang
"tư duy lại" chiến lược gia công và toàn bộ chuỗi cung ứng. Theo đó,
sẽ đa dạng hóa nguồn cung để giảm thiểu rủi ro, thay vì dựa hoàn toàn vào Trung
Quốc, sau đại dịch Covid-19. Một bản đồ mới của chuỗi sản xuất toàn cầu sẽ được
vẽ lại sau cơn khủng hoảng 2020.
Hơn 30 năm trước, các tập đoàn lớn có quy mô
toàn cầu đã xây dựng hệ thống sản xuất tại Trung Quốc vì chi phí rẻ. Tuy nhiên,
thương chiến Mỹ - Trung vừa qua đã dẫn tới gánh nặng thuế và nguy cơ gián đoạn
nguồn cung, buộc các DN phải cân nhắc lại. Cùng với đó đại dịch Covid-19 bùng
phát từ Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc rồi lan khắp Trung Quốc và thế giới, tạo ra một vấn
đề mới nghiêm trọng không kém. Để thích nghi với những “cú sốc” không
lường trước, các tập đoàn đang tính tới việc chuyển hướng đầu tư sang các quốc
gia khác.
Mới đây, chính phủ Nhật Bản đã thông qua
gói 2,2 tỷ USD để hỗ trợ các DN nước này chuyển dời những ngành sản
xuất quan trọng ra khỏi Trung Quốc. Trong khi đó, Mỹ muốn hợp tác với nhiều đối
tác ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương thành lập "Mạng lưới thịnh
vượng kinh tế", thúc đẩy phát triển kinh tế toàn cầu thời hậu Covid-19.
Ngày 29/4/2020, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo cho biết nước này đang trao đổi với
Úc, Ấn Độ, Nhật, New Zealand, Hàn Quốc và Việt Nam để "đưa kinh tế toàn
cầu tiến lên". Cùng với đó là kêu gọi cả khu vực Mỹ Latinh tham gia liên
minh này.
Có thể nói, đây là cơ hội để Việt Nam đón
nhận làn sóng đầu tư mới gia tăng, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, nâng
cao năng lực với các lĩnh vực sản xuất quan trọng. Tại phiên họp Chính phủ
thường kỳ tháng 4 vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh Việt Nam sẵn
sàng tâm thế “đón sóng” chuyển dịch vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
trên thế giới.
Báo cáo Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI)
2019 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa phát hành cho thấy,
các doanh nghiệp FDI ghi nhận sự cải thiện ấn tượng về môi trường kinh doanh. Nhờ các nỗ lực cải cách, thời gian
thành lập doanh nghiệp giảm tổng cộng 38 ngày. Có
56% doanh nghiệp FDI hoàn thành thủ tục đăng ký trong thời gian dưới một tháng,
92% doanh nghiệp FDI nhận được toàn bộ giấy tờ cần thiết để đi vào hoạt động
chính thức trong vòng chưa đầy 3 tháng. Tỷ lệ doanh nghiệp FDI có lãnh đạo phải
bỏ ra trên 5% quỹ thời gian để tìm hiểu và thực hiện thủ tục hành chính đã giảm
từ mức 70% trong các năm 2012-2016 xuống còn 41,3% .
Mặc dù vậy, môi trường kinh doanh của Việt
Nam vẫn xếp thứ hạng khá thấp, đứng vị trí 70 trong bảng xếp hạng của Ngân hàng
Thế giới năm 2019, liên tục giảm trong 2 năm gần đây (mỗi năm giảm 1 bậc). Qua
đó, ghi nhận Việt Nam có cải cách, nhưng còn ít và chậm. Trong ASEAN, Việt Nam
đứng ở vị trí thứ 5, sau Singapore, Malaysia, Thái Lan và Brunei. Để bắt kịp
Thái Lan vị trí thứ 21 hay Malaisia vị trí 12 thì còn khoảng cách khá xa.
Theo VCCI, hệ thống pháp luật về kinh doanh vẫn
còn nhiều tồn tại, đó là sự thiếu thống nhất, chồng chéo giữa các văn bản khi
cùng điều chỉnh về hoạt động đầu tư, kinh doanh. Chẳng hạn các luật: Đầu tư,
Đất đai, Xây dựng, Kinh doanh bất động sản, Nhà ở, Bảo vệ môi trường, Tài
nguyên nước,... chưa thống nhất về điều kiện, thẩm quyền, hồ sơ, thời hạn thực
hiện thủ tục; chồng lấn khi thực hiện thủ tục hành chính... Thực tế này
đang khiến nhiều nhà đầu tư không biết nên thực hiện thủ tục nào trước, thủ tục
nào sau hay có phải thực hiện thủ tục không?
Đó là 1 nguyên nhân khiến việc triển khai dự án kéo dài, thậm chí
đình trệ, không thể triển khai, tăng chi phí về thời gian, tiền bạc và rủi ro.
Về cắt giảm điều kiện kinh
doanh, sau năm 2018, Việt Nam có những chuyển động tích cực, có tính cải
cách, đột phá thì sang năm 2019, sự nhiệt tình của các Bộ, ngành giảm đi đáng
kể khi không cắt giảm hoặc cắt giảm nửa vời.
Thủ tục khiến doanh nghiệp vướng mắc lớn nhất hiện nay là về đất đai,
giải phóng mặt bằng. Việc vận dụng các quy định, chính sách ở các địa phương
vẫn còn tồn tại những bất cập, chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi, sự bình
đẳng cho các nhà đầu tư. Hiện tượng nhũng nhiễu của cán bộ khi giải quyết thủ
tục hành chính vẫn còn cao, chi phí “lót tay” lớn...
Một vấn đề nghiêm trọng nữa là ô nhiễm môi
trường. Nhiều địa phương đang đối mặt với nguy cơ ô nhiễm môi trường, trong khi
kế hoạch phát triển bền vững chưa được triển khai. Quản lý sử dụng năng lượng,
giảm lượng khí thải carbon và giảm phát thải, quản lý chất thải, quản lý phương
tiện giao thông vận tải,... đang tác động tới sức khỏe con người. Ô nhiễm môi
trường sẽ khiến nhà đầu tư e dè, làm suy giảm giá trị đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam.
Kiến tạo một môi trường kinh doanh bình đẳng
với khung pháp lý công bằng, minh bạch và vận hành chính sách ổn định để hấp
dẫn, thu hút FDI bền vững. Cùng với đó là nâng cao chất lượng môi trường, với
các kế hoạch phát triển bền vững. Đó là kỳ vọng của cộng đồng các nhà đầu tư
nước ngoài vào chính quyền trong thời gian tới.
Đăng nhận xét