Chạy tội cho “chất độc da cam” – đỉnh cao của sự mất nhân tính!
Chạy
tội của Mỹ ngụy, xóa nhòa tội ác nhằm bôi nhọ, hạ thấp vai trò lãnh đạo của
Đảng là chiêu trò, thủ đoạn phổ biến, nhưng phủ nhận tội ác và độc tính của
chất độc da cam bất chấp hàng triệu nạn nhân khắp đất nước thì thực sự là đỉnh
cao của ác độc, phi nhân tính của những kẻ tự xưng “đấu tranh dân chủ, nhân
quyền cho Việt Nam”.
Tiêu
biểu như bài viết “Vì sao vụ csvn kiện chất độc da cam ở việt nam thất bại”
trong đó kẻ viết bài này cho rằng “Người VN hại người VN qua nhiều vụ thực phẩm
bẩn, thực phẩm tẩm hoá chất. Ăn thực phẩm đó rồi bị ung thư, sinh con dị dạng
khuyết tật, chứ có chất độc da cam của “Mỹ Nguỵ” nào ở đây” khiến vô khối người
xem phẫn nộ.
Về
vụ rải chất độc dacam/ đi-ô-xin của Mỹ ở miền Nam, Việt Nam, xin nhắc lại để
lịch sử mãi không bao giờ quên.
Ngày
10/8/1961, chiếc máy bay đầu tiên của không lực Hoa Kỳ bắt đầu phun rải chất
độc dọc theo quốc lộ 14 từ thị xã Kon Tum lên Đắk Tô (Kon Tum), mở màn cho cuộc
chiến tranh hóa học kéo dài suốt 10 năm ở miền Nam Việt Nam. Đã 63 năm đã trôi
qua, nhưng những mất mát, đau thương do thảm họa da cam/dioxin để lại trên đất
nước ta vẫn rất nặng nề cả về môi trường sinh thái lẫn sức khỏe con người. Là
nước gây ra hậu quả đó, Chính phủ Mỹ nhìn nhận trách nhiệm của mình như thế nào
và họ đã làm gì để hỗ trợ, bù đắp về vật chất và tinh thần cho các nạn nhân
chất độc da cam/đi-ô-xin Việt Nam?
Trong
vòng 10 năm (1961 – 1971), quân đội Mỹ đã rải khoảng 80 triệu lít chất diệt cỏ,
phần lớn là chất da cam, chứa 366kg đi-ô-xin xuống gần 26.000 thôn, bản ở miền
Nam Việt Nam. Chất da cam có chứa đi-ô-xin, được coi là chất độc nhất mà con
người biết được từ trước tới nay. Mục đích của hành động này là nhằm hủy diệt
cây cối, dọn quang rừng cây để dễ bề giám sát, phát hiện vị trí đóng quân hoặc
nơi ẩn nấp của quân đội Việt Nam; tiêu diệt cây trồng trong những vùng do ta
nắm giữ; hủy diệt mùa màng nhằm cắt nguồn tiếp tế lương thực, thực phẩm cho lực
lượng cách mạng, đồng thời cưỡng bức, dồn dân vào các trại tập trung hoặc những
vùng do Mỹ – ngụy kiểm soát. Hành động của quân đội Mỹ kéo dài trong nhiều năm,
trên một quy mô rộng lớn, chiếm khoảng 25% tổng diện tích miền Nam; đã gây ra
những hậu quả nghiêm trọng đối với môi trường sinh thái, đặc biệt là đối với
sức khỏe của con người.
Theo
số liệu thống kê, ước tính có khoảng 4,8 triệu người Việt Nam bị phơi nhiễm,
hơn 3 triệu người là nạn nhân, trên 150 nghìn nạn nhân là trẻ em (cả thế hệ con
và cháu). Hàng trăm nghìn người trong số đó đã qua đời. Hàng triệu người và con
cháu của họ phải sống trong bệnh tật, đau đớn, nghèo khó do di chứng của chất
độc da cam. Do những ảnh hưởng nặng nề của chất độc da cam/đi-ô-xin tới sức
khỏe và môi trường nên việc giải quyết hậu quả của nó là một vấn đề vừa cấp
bách, vừa lâu dài và vô cùng phức tạp, đòi hỏi sự nỗ lực của Nhà nước, sự quan
tâm, giúp đỡ của các tổ chức xã hội, các nhà hảo tâm và đông đảo bạn bè quốc
tế.
Trước
những tội ác mà quân đội Mỹ gây ra cho nhân dân Việt Nam, chúng ta đã nhiều lần
đề nghị phía Mỹ và các công ty hóa chất Mỹ phải có trách nhiệm cùng chung tay
giải quyết những hậu quả của chất độc da cam/đi-ô-xin. Tuy nhiên trong thời kỳ
1975 – 1995, khi Mỹ sử dụng chính sách cấm vận đối với Việt Nam, việc hợp tác
giải quyết các vấn đề hậu quả chiến tranh ở Việt Nam trở nên “băng giá”. Chỉ
đến khi hai nước bình thường hóa quan hệ, vấn đề giải quyết hậu quả chiến tranh
nói chung mới được đề cập tới. Tuy nhiên, các chính quyền Mỹ luôn tìm mọi cách
để chối bỏ trách nhiệm pháp lý của mình.
Thái
độ này của Chính quyền Mỹ vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của dư luận quốc tế,
trong đó có đông đảo nhân dân và những cựu chiến binh Mỹ – những người từng
tham chiến ở Việt Nam và nhiều người trong số đó cũng bị nhiễm loại chất độc
nguy hiểm này. Đối với nhiều cựu chiến binh Mỹ, hậu quả đau lòng của việc quân
đội Mỹ sử dụng chất độc da cam/đi-ô-xin tại Việt Nam khiến họ bị ám ảnh khôn
nguôi. Theo họ, cuộc chiến tranh Việt Nam là điều tồi tệ nhất từng chứng kiến,
là một trang đau đớn trong lịch sử nước Mỹ.
Trước
sự phản đối gay gắt từ phía dư luận quốc tế, đặc biệt là dư luận Mỹ, đồng thời,
xuất phát từ những tính toán chiến lược của Mỹ, từ năm 2007 đến nay, phía Mỹ đã
có những hành động tích cực bước đầu trong việc giải quyết hậu quả của chất độc
da cam/đi-ô-xin tại Việt Nam. Năm 2007, Nhóm Đối thoại Việt – Mỹ về chất độc da
cam/đi-ô-xin được thành lập. Qua các lần đi tìm hiểu thực tế, các thành viên
phía Mỹ đã hiểu được một phần sự thật về những nỗi đau và mất mát do chất độc
da cam/đi-ô-xin gây ra, tạo điều kiện thuận lợi cho hai bên trao đổi một cách
thẳng thắn với nhau.
Từ
năm 2007 đến năm 2010, Nhóm Đối thoại đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, như
được phía Mỹ hỗ trợ Phòng phân tích về đi-ô-xin trị giá 6,75 triệu USD; chương
trình đào tạo nhân lực về phục hồi các vùng đất bị ảnh hưởng do chất độc hóa
học đã được thực hiện ở Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế. Nhiều tổ chức quốc tế,
trong đó có các tổ chức của Mỹ đã hỗ trợ cho các nạn nhân chất độc da cam. Với
sự tác động của Nhóm Đối thoại Việt – Mỹ, Quốc hội Mỹ đã thông qua khoản viện
trợ 3 triệu USD/năm cho các năm tài chính 2007, 2008, 2009 và năm 2010 là 15
triệu USD cho việc khắc phục hậu quả chất độc da cam ở Việt Nam. Một thành công
mới đây là Nhóm này đã lập nên bản kế hoạch 10 năm (2010 – 2019) để tiếp tục
góp phần giải quyết vấn đề hậu quả chất độc da cam/đi-ô-xin, với dự kiến kinh
phí là 300 triệu USD (trung bình 1 năm là 30 triệu USD).
Những
sự kiện này thể hiện động thái tích cực của phía Mỹ trong việc nhìn nhận, đánh
giá và tham gia khắc phục hậu quả chất độc da cam ở Việt Nam. Tuy nhiên, những
khoản tài trợ trên còn quá nhỏ bé so với hậu quả hết sức to lớn mà quân đội Mỹ
gây ra cho nhân dân Việt Nam. Hơn nữa, những hỗ trợ trên mới chỉ tập trung vào
việc giải quyết vấn đề môi trường, còn việc đền bù, chăm sóc sức khỏe, cuộc
sống cho nạn nhân da cam vẫn còn rất hạn chế.
Chiến
tranh đã đi xa, nhưng hậu quả mà nó để lại còn hết sức nặng nề, đặc biệt là với
những nạn nhân, những gia đình có người nhiễm chất độc da cam/đi-ô-xin. Cuộc
đấu tranh đòi công lý, đòi bồi thường thiệt hại cho những nạn nhân này vẫn đang
diễn ra với sự ủng hộ mạnh mẽ của dư luận quốc tế. Do lẽ Chính phủ Hoa Kỳ – kẻ
ra lệnh rải chất độc da cam không thể bị truy tố, nên vụ kiện nhắm đến mấy chục
công ty Mỹ trong đó có các công ty Dow Chemical và Monsanto, vốn là chủ chốt
trong việc sản xuất chất độc gọi là da cam được quân đội Mỹ sử dụng trong chiến
tranh.
Tuy
rơi vào tình thể “con kiến mà kiện củ khoai”, nhưng ít nhiều đã khiến dư luận
quốc tế và dư luận nước Mỹ ủng hộ, gây tiếng vang không hề nhỏ.
Điều
đáng tiếc rằng, có những kẻ “bồi bút”, táng tận lương tâm đến mức sẵn sàng chà
đạp hiện thực lịch sử đau thương, hàng triệu nạn nhân để đổi trắng thay đen,
trắng trợn phủi sạch tội ác của chất độc da cam kia.
St
Đăng nhận xét