Lịch sử Việt Nam hơn 91 năm qua, nhìn bao quát, có thể nói là lịch sử của sự lựa chọn, khẳng định và thực thi mục tiêu phát triển gắn với sự lựa chọn đảng chính trị lãnh đạo đất nước, dẫn dắt dân tộc, vì mục tiêu đó. Ngay từ những thập niên đầu tiên tới những năm 50 của thế kỷ 20 đã và luôn là lịch sử thăng trầm của sự đào thải, sàng lọc, kiểm nghiệm và lựa chọn đó.
Năm 1930, qua hơn nửa
thế kỷ, kể từ năm 1858, lúc bấy giờ, đất nước rên xiết trong vòng nô lệ của chủ
nghĩa thực dân Pháp và chế độ phong kiến. Nhu cầu tất yếu dân tộc phải độc lập,
nhân dân phải được tự do và dân chủ, hoàn toàn bế tắc, chưa thấy tương lai. Độc
lập tự do hay là chết? Hàng loạt cuộc khởi nghĩa do giai cấp nông dân, các sĩ
phu yêu nước Việt Nam ngõ hầu trả lời câu hỏi lịch sử đó, nhưng đều lần lượt
thất bại. Các đảng chính trị đại diện cho các giai cấp, tầng lớp xã hội ở nước
ta, lúc bấy giờ, nhảy ra tranh đoạt vũ đài chính trị dân tộc, cũng đông đúc
chưa từng thấy. Ai cũng biết, từ đảng của giai cấp nông dân (Nghĩa hưng, năm
1907); đảng của giai cấp tư sản, địa chủ (Lập hiến, năm 1923)... tới đảng của
tầng lớp thanh niên, sinh viên, trí thức tiểu tư sản (Việt Nam nghĩa đoàn, Đảng
Thanh niên, Đảng An Nam độc lập (năm 1927), Việt Nam Quốc dân đảng (năm
1927)... rồi đảng của bọn tay sai của đế quốc Pháp và phát xít Nhật, (Đại Việt
quốc gia xã hội đảng, Đại Việt quốc dân đảng (những năm 1940 tới khi Việt Nam
giành được độc lập bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945); chen chúc các đảng
phản động (Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng minh hội
(Việt Cách)... thật huyên náo, tới mức hỗn loạn chính trường. Trong số ấy, chỉ
một số đảng mong chấn hưng đất nước nhưng “lực bất tòng tâm”, số còn lại những
mưu toan tính biến đất nước thành nơi thử nghiệm những mưu đồ chính trị của
giai cấp, tầng lớp họ.
Nhưng rốt cuộc, tất cả
những đảng đó đã lùi vào dĩ vãng của lịch sử và bị lịch sử dân tộc chôn vùi rất
lặng lẽ trái với sự huyên náo đến mức hỗn loạn lúc các đảng này xuất hiện và
khua chiêng gõ mõ trên chính trường Việt Nam lúc bấy giờ. Các đảng này hoặc tự
phải diệt vong hoặc bị giải tán. Theo đó, các giai cấp, tầng lớp đại diện cho
các đảng đó cũng cáo chung vai trò lãnh đạo dân tộc. Thách thức của lịch sử về
vị trí, vai trò của đảng chính trị đối với vận mệnh cứu đất nước khỏi vòng nô
lệ, nhân dân khỏi xiềng xích vong quốc nô vẫn đang bỏ ngỏ. Điều đó ai nấy đều
rõ.
Đảng Cộng sản Việt Nam
mở ra trang sử mới cho dân tộc Việt Nam
Trong thời gian ấy,
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời giữa “một rừng” đảng phái chính trị ở Việt Nam. Không
ồn ào như các đảng trên ra đời từ sớm, mà trái lại, Đảng lặng lẽ hiện diện,
thậm chí phải tạm lánh ở nước ngoài, vì Đảng “là con nòi” của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động Việt Nam, được hun đúc bởi truyền thống yêu nước
thương nòi Việt Nam, dưới ngọn cờ của Chủ nghĩa Mác-Lênin, nguyện chiến đấu và
hy sinh vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH). Đảng
Cộng sản bị kẻ thù vây bủa, đàn áp đẫm máu, bị các đảng khác đương thời chèn
ép, tranh đoạt sự ảnh hưởng. Trong 15 năm đầu, bao lần Đảng bị thực dân Pháp
vây ráp, khủng bố trắng, hàng nghìn đảng viên của Đảng bị tù đầy, chém giết,
hàng vạn đồng bào bảo vệ Đảng bị bắt bớ, lưu đầy, chỉ riêng 31 Ủy viên Trung
ương của Đảng đã bị thực dân Pháp “tặng” cho 221 năm tù khổ sai. Nhiều Tổng Bí
thư của Đảng bị thực dân Pháp tử hình... Lịch sử của Đảng 15 năm đầu được viết
bằng máu đào và xương trắng đảng viên, chiến sĩ, đồng bào cuộc đấu tranh song
trùng: Giữa Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và chế độ phong kiến bán nước
của chúng và giữa các đảng chính trị Việt Nam trong việc giành vị thế cầm quyền
đất nước... Tất cả được thử thách qua sự sàng lọc, lựa chọn và đào thải của
lịch sử, của nhân dân. Đó là khí phách Việt Nam. Điều đó ai cũng đều thấy.
Một Đảng Cộng sản như
thế xứng đáng là một đảng gánh vác sứ mệnh lịch sử, đứng mũi chịu sào trước
nhân dân, dẫn dắt dân tộc. Vì sự thật Đảng vốn là “đứa con nòi” phải thuộc về
dân tộc, phải là của nhân dân và đảm đương sứ mệnh “phải làm cái việc là gieo
hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”, dẫn dắt đất nước thực thi trọng
trách nhân dân giao phó: Độc lập dân tộc và CNXH. Đảng Cộng sản Việt Nam là
người kết tinh, chung đúc những tố chất của một đảng vô sản kiểu mới và thực tế
đủ bản lĩnh chính trị và năng lực trí tuệ lãnh nhiệm trọng trách ấy của đất
nước đặt ra và được nhân dân tin theo và hy sinh vì nó. Và Đảng trở thành một
đảng dẫn dắt dân tộc và sau nay trở thành một đảng cầm quyền. Không một lực
lượng chính trị nào Việt Nam lúc bấy giờ và bây giờ đủ tầm nhìn chính trị, bản
lĩnh chính trị có thể làm nổi, không một ai có đủ chính danh cho tới tận hôm
nay để có thể, dù cả gan, dù bất chấp đạo lý và pháp lý, làm vấy bẩn nó.
Sinh ra trong lòng dân
tộc và đồng hành cùng dân tộc bẻ gãy gông xiềng nô lệ quàng lên cổ đất nước,
giành lại độc lập cho Tổ quốc, lập nên chính quyền của nhân dân, và Đảng trở
thành Đảng cầm quyền. Điều đó làm nên địa vị lịch sử một cách tự nhiên và địa
vị pháp lý của Đảng một cách tất yếu. Vấn đề quan trọng hơn hết và quyết định
tất thảy là, địa vị cầm quyền đó của Đảng đã được bảo đảm bởi năng lực cầm
quyền và uy tín cầm quyền trên thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam suốt hơn
91 năm qua; và, vị thế nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hơn 76 năm qua, dưới ngọn
cờ của Đảng, trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định và trọng thị.
Vì không có trọng
trách gì nặng nề và vẻ vang hơn, dù trong hoàn cảnh nào, Đảng luôn là đội tiền
phong chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam-giai cấp đại biểu cho yêu cầu
phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến. Đảng không có lợi ích nào cao hơn
rằng, Đảng là đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động và của cả
dân tộc Việt Nam. Vì Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân
tộc, không thiên tư, thiên vị. Mục tiêu phấn đấu của Đảng không có gì khác
ngoài “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong vị thế vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng Cộng
sản Việt Nam đã trở thành “Đảng ta”, “Đảng của chúng ta”, “Đảng của dân tộc
chúng ta”... Đó là đạo lý Việt Nam.
Và đi trên con đường
xã hội chủ nghĩa (XHCN) tới cái đích cao quý ấy được Đảng Cộng sản Việt Nam
vạch ra ngay lúc mới ra đời. Qua hơn 76 năm cầm quyền, Đảng cùng toàn dân tộc
xây dựng nên một nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã và đang giữ một vị thế mới trên
trường quốc tế mà bất cứ ai cũng thấy. Qua 35 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới,
Đảng ta càng trưởng thành toàn diện. Trước thềm Đại hội XII của Đảng (tháng
1-2016), dư luận quốc tế nhận định: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là chính
đảng duy nhất cầm quyền là một mô hình thành công đặc biệt và mô hình này có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là đối với các nước đang phát triển vì rất
nhiều mô hình đã được thử nghiệm, nhưng chưa thấy mô hình nào thành công”.
Trọng trách cầm quyền
của Đảng, vinh dự được cầm quyền của Đảng trước nhân dân là do lịch sử dân tộc
giao phó và được nhân dân Việt Nam thừa nhận, ủy thác và tin theo, chứ tuyệt
đối không phải “từ trên trời rơi xuống” hay sự sắp xếp chủ quan của bất cứ ai,
sự ngộ nhận của bất cứ giai cấp, tầng lớp nào.
Nhân đây, cần được nói
thêm về một số ý kiến lưỡng lự hoặc công kích về chuyện một đảng hay đa đảng và
vấn đề dân chủ ở Việt Nam. Rằng, từ những năm 40 tới những năm 90 của thế kỷ
20, cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam, ở nước ta, còn có hai đảng là Đảng Dân chủ
Việt Nam (ra đời ngày 30-6-1944 và tự giải tán vào ngày 20-10-1988) và Đảng Xã
hội Việt Nam (ra đời ngày 22-7-1946 và tự giải tán tròn 42 năm sau đó, ngày
22-7-1988) đều thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng dân tộc
Việt Nam tranh đấu vì một nước Việt Nam độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ
và xây dựng CNXH. Nghĩa là, Việt Nam đã từng và có một thời kỳ lịch sử không
ngắn, ngót nửa thế kỷ, sau khi dân tộc giành lại nền độc lập và toàn vẹn lãnh
thổ, nhân dân được hưởng nền tự do, cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam, đã từng có
nhiều đảng chính trị khác hoạt động và tự giải tán, chứ đâu phải câu chuyện hão
về “đảng toàn trị”, “độc đảng” hoặc đâu cần ai khuyến nghị “muốn có dân chủ,
phải đa đảng”(!).
Tới đây, lại nhớ và
nhắc lại lời người xưa, rằng nếu như đem dục vọng, tạp niệm của mình lắng
xuống, có đạo lý nào mà chúng ta không thể thông suốt? Rằng, nếu đem chí hướng
của mình mạnh mẽ khơi dậy, có việc gì mà ta không thể làm? Mấy vị ngày nay ấy,
danh chính gì mà luận chính danh hay chính pháp về Đảng, khi các vị chỉ biết ôm
trong lòng sự kiêu ngạo vô lối mà quan sát sự tình, mang tinh thần uể oải sa
sút, thậm chí đem con mắt hạt đậu mà định luận sự việc, chẳng qua cũng chỉ là
hồ đồ sống hết cuộc đời mình. Chỉ thế mà thôi!
Có thể nói gọn lại,
lịch sử dân tộc Việt Nam sinh ra Đảng Cộng sản Việt Nam, đến lượt mình, Đảng
đáp lại yêu cầu của lịch sử dân tộc, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về quy mô,
tốc độ, chiều sâu của công cuộc phát triển đất nước và phù hợp với xu thế tiến
bộ của thời đại. Đó là biện chứng phát triển tự nhiên và tất yếu của dân tộc
Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là nhu cầu phát triển tất yếu của đất
nước hiện nay, trên con đường độc lập dân tộc và CNXH, dưới ngọn cờ của Đảng.
Đó là tính tất yếu cầm quyền của Đảng, tính chính danh, chính pháp, bảo đảm tư
cách pháp lý và đạo lý để Đảng cầm quyền./.
St
Đăng nhận xét