Gần đây, có nhiều dư luận trong nước và ở nước ngoài đưa ra quan điểm sai trái rằng: “Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Quốc chiếm gần 50 năm rồi. Từ đó đến nay Việt Nam chưa gửi bất kỳ kháng nghị, đơn kiện nào lên tòa án công lý quốc tế hoặc tòa án quốc tế. Nếu Việt Nam không có bất kỳ kháng nghị hay đơn kiện nào thì theo luật quốc tế coi như Việt Nam chấp nhận mất Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa vĩnh viễn về tay Trung Quốc…”.
Xin giới thiệu bài
viết phân tích của ông Hoàng Việt, giảng viên Trường đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh về chủ đề này.
Việt Nam có hơn 3.000
hòn đảo lớn, nhỏ và hai quần đảo ngoài khơi Biển Ðông là Hoàng Sa và Trường Sa.
Ðây là hai quần đảo tiền tiêu của Tổ quốc; là bộ phận không thể tách rời của
lãnh thổ Việt Nam.
Từ những tư liệu lịch
sử trong nước và ở nước ngoài, chúng ta khẳng định rằng: Việt Nam có đầy đủ
bằng chứng pháp lý, lịch sử để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhiều tư liệu lịch sử
quý giá
Từ nửa đầu thế kỷ 17,
Chúa Nguyễn đã tổ chức “đội Hoàng Sa” (lấy người từ xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn,
phủ Quảng Ngãi) ra quần đảo Hoàng Sa (với khoảng thời gian từ sáu đến tám tháng
mỗi năm) để thu lượm hàng hóa trôi dạt trên biển, đánh bắt hải sản quý hiếm;
đồng thời, đo vẽ sơ đồ, hải trình, trồng cây và dựng mốc trên quần đảo.
Cũng với nhiệm vụ này,
cho đến thế kỷ 19, nhà Nguyễn đã tổ chức thêm “đội Bắc Hải” (lấy người thôn Tứ
Chính và xã Cảnh Dương, phủ Bình Thuận) để tiến ra quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
để thực hiện các hành động chủ quyền tại đây. Theo hiểu biết địa lý lúc bấy
giờ, địa danh quần đảo Hoàng Sa liền một dải, bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa.
Ðiều đó chứng tỏ ngay
từ thế kỷ 17, Việt Nam đã xác lập, thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa khi hai quần đảo này còn là lãnh thổ vô chủ và có thể nói
là quốc gia duy nhất thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo này một cách hòa
bình, liên tục và không gặp phải sự phản đối của bất kỳ quốc gia nào.
Thực tế này được chứng
minh trong nhiều tư liệu, sách cổ, văn bản pháp lý của Nhà nước, bản đồ thể
hiện việc thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa được lưu giữ tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới như: Toàn tập
Thiên nam tứ chí lộ đồ thư của Ðỗ Bá, tự Công Ðạo sưu tập, biên soạn và hoàn
thành năm 1686; Phủ biên tạp lục của Lê Quý Ðôn (1776); Lịch triều hiến chương
loại chí của Phan Huy Chú (1821); Hoàng Việt địa dư chí (1833); Ðại Nam thực
lục tiền biên (1844-1848); Ðại Nam thực lục chính biên (1844-1848), Việt sử
cương giám khảo lược (1876), Ðại Nam nhất thống chí (1882); Dư địa chí Khâm
định Ðại Nam Hội điển sự lệ (1910); Hải ngoại kỷ sự (năm 1696) của nhà sư Trung
Quốc Thích Ðại Sán; Quốc triều chính biên toát yếu (1910), An Nam đại quốc họa
đồ của giám mục người Pháp Louis Taberd (1838), Ðại Nam nhất thống toàn đồ (Bản
đồ chính thức của triều Minh Mạng) (1838)...
Ðặc biệt, bộ Atlas thế
giới của Philipe Vandemaelen xuất bản năm 1827, tại Bỉ, trong đó, vẽ và miêu tả
rõ quần đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ của Vương quốc An Nam.
Ngoài ra, các Châu bản
triều Nguyễn là các văn bản hành chính chính thức của triều đình nhà Nguyễn
(1802-1945) có dấu son của vua, là bằng chứng quan trọng khẳng định việc Nhà
nước quân chủ Việt Nam đã xác lập và triển khai nhiều hoạt động thực thi chủ
quyền đối với hai quần đảo như hằng năm cử các đội Bắc Hải kiêm quản đội Hoàng
Sa ra hai quần đảo khai thác các tài nguyên sản vật trên biển và thu lượm hàng
hóa trên các tàu bị đắm; đo đạc vẽ bản đồ; dựng bia, lập miếu, trồng cây, cứu
trợ các tàu thuyền nước ngoài gặp nạn... Ðây là các tài liệu quý giá của triều
đình nhà Nguyễn để lại cho thế hệ sau, khối tài liệu Châu bản đã được UNESCO
công nhận là Di sản tư liệu cấp quốc tế.
Trong thời kỳ Pháp
thuộc, với tư cách đại diện cho Việt Nam về đối ngoại theo Hiệp ước Patenôtre
(năm 1884), Chính quyền thuộc địa Pháp đã có nhiều hoạt động củng cố chủ quyền Việt
Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Từ năm 1925 đến năm 1927, Pháp đã tổ
chức điều tra về khí hậu, thổ nhưỡng, nghiên cứu mỏ và duy trì tuần tra trên
quần đảo Hoàng Sa.
Liên tục trong các năm
1930-1933, Pháp đã đưa quân đội ra đóng giữ ở quần đảo Trường Sa. Ðể tiện quản
lý, năm 1933, Pháp đã sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa (Nam Kỳ);
thành lập đơn vị hành chính ở Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên (năm 1938). Cũng
trong thời gian này, Pháp còn cho đặt cột mốc, xây ngọn hải đăng và các trạm:
khí tượng, vô tuyến điện trên hai quần đảo.
Trong quan hệ quốc tế,
Pháp đã nhiều lần lên tiếng phản đối các đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc đối
với quần đảo Hoàng Sa. Ngày 14/10/1950, Pháp đã chính thức trao việc quản lý
quần đảo Hoàng Sa cho chính phủ Bảo Ðại.
Ðặc biệt, tại Hội nghị
San Francisco (năm 1951), trước đại diện của 51 quốc gia (trong đó có Trung
Quốc), đại diện của chính phủ Bảo Ðại với tư cách là thành viên của khối Liên
hiệp Pháp, phái đoàn quốc gia Việt Nam do Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao
Trần Văn Hữu làm trưởng đoàn đã tham gia hội nghị.
Phát biểu tại hội
nghị, Thủ tướng Trần Văn Hữu một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Lời tuyên bố đó đã được Hội nghị San
Francisco ghi vào biên bản và không gặp phải sự bảo lưu hay phản đối nào của
đại diện các nước tham dự hội nghị, đã khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp phải bất cứ sự phản
đối nào của các nước tham dự hội nghị.
Năm 1975, cùng với
tiến trình giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước, Hải quân nhân
dân Việt Nam đã giải phóng các đảo do quân đội Sài Gòn đóng giữ, như: đảo
Trường Sa, Sơn Ca, Nam Yết, Song Tử Tây, Sinh Tồn và An Bang,… thuộc quần đảo
Trường Sa. Ðồng thời, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam
đã ra tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa.
Liên tục từ đó đến
nay, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật khẳng định
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ
Việt Nam và Việt Nam có đầy đủ chủ quyền đối với hai quần đảo này, phù hợp các
quy định của luật pháp và thực tiễn quốc tế. Hiện nay, huyện đảo Hoàng Sa trực
thuộc thành phố Ðà Nẵng; huyện đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Khánh Hòa với một
thị trấn và hai xã đảo.
Những quan điểm sai
trái
Theo công pháp quốc
tế, có bốn cách để thiết lập chủ quyền trên một lãnh thổ, bao gồm: (1) chuyển
nhượng, (2) sự hình thành lãnh thổ mới, (3) chiếm hữu một lãnh thổ vô chủ, và
(4) chiếm hữu theo thời hiệu.
Kể từ sau năm 1945,
với sự ra đời của Liên hợp quốc và nhiều văn bản pháp luật quốc tế quan trọng,
bao gồm Hiến chương Liên hợp quốc và các văn bản khác liên quan thì nguyên tắc
cấm sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế đã được thiết lập,
theo đó các hành vi xâm chiếm lãnh thổ bằng vũ lực bị nghiêm cấm.
Ðặc biệt, Nghị quyết
2625 của Ðại hội đồng Liên hợp quốc đã khẳng định: “Mọi quốc gia có nghĩa vụ từ
bỏ việc sử dụng hoặc đe dọa dùng vũ lực nhằm vi phạm sự tồn tại của các đường
biên giới của các quốc gia khác, hoặc sử dụng như là các biện pháp giải quyết
tranh chấp quốc tế bao gồm các tranh chấp về lãnh thổ và các vấn đề liên quan
đến biên giới của các quốc gia… Tất cả các quốc gia sẽ giải quyết các tranh
chấp quốc tế với những quốc gia khác bằng các biện pháp hòa bình mà không làm
phương hại đến hòa bình, an ninh và công lý quốc tế”.
Như vậy, chúng ta có
thể khẳng định rằng, việc sử dụng vũ lực chiếm đóng lãnh thổ của nước khác không
bao giờ mang lại danh nghĩa chủ quyền hợp pháp cho quốc gia sử dụng vũ lực. Năm
1974 và năm 1988, Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa đã vi phạm vào nguyên tắc này, và do đó, không bao giờ là
căn cứ hợp pháp cho yêu sách chủ quyền của Trung Quốc.
Chung quanh vấn đề
Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp một số đảo của Việt Nam, thời gian qua trên
internet có ý kiến cho rằng: “Theo luật quốc tế, nếu có tranh chấp lãnh thổ mà
giữa các kháng nghị có một khoảng gián đoạn 50 năm hoặc nhiều hơn thì những đòi
hỏi lãnh thổ trở nên vô hiệu. Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Quốc chiếm gần
50 năm rồi. Từ đó đến nay Việt Nam chưa gửi bất kỳ kháng nghị, đơn kiện nào lên
tòa án công lý quốc tế hoặc tòa án quốc tế. Nếu Việt Nam không có bất kỳ kháng
nghị hay đơn kiện nào thì theo luật quốc tế coi như Việt Nam chấp nhận mất
Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa vĩnh viễn về tay Trung Quốc…”.
Ðiều này hoàn toàn sai
lầm và không có căn cứ trong luật quốc tế. Trong các văn bản quốc tế quan trọng
đều không quy định vấn đề này. Trong các tập quán quốc tế về thụ đắc lãnh thổ
của một quốc gia cũng không thể hiện điều này. Trong các án lệ quốc tế về tranh
chấp lãnh thổ cũng không có một dòng nào nhắc tới quy định như vậy. Vì thế, đây
chỉ là một sự suy diễn không có căn cứ.
Trong luật quốc tế về
thụ đắc lãnh thổ chỉ thể hiện nếu một quốc gia chính thức từ bỏ, hoặc im lặng
không lên tiếng phản đối chính thức trước một hành động xâm chiếm trái phép
lãnh thổ đó thì mới bị coi là đánh mất chủ quyền trên lãnh thổ đó.
Ngay khi Hoàng Sa bị
xâm chiếm, phía Việt Nam Cộng hòa (là bên đang quản lý thực tế Hoàng Sa và
Trường Sa) đã lên tiếng phản đối hành động vi phạm này của Trung Quốc.
Năm 1988, khi Gạc Ma
bị xâm chiếm bằng vũ lực, chính quyền Việt Nam đã liên tục ra các văn bản phản
đối hành vi bất hợp pháp này. Chúng ta đã ban hành rất nhiều công hàm tại Liên
hợp quốc cũng như các tuyên bố liên tục hằng năm để tiếp tục phản đối hành vi
xâm phạm trái phép này.
Như vậy, chúng ta đã,
đang và sẽ vẫn tiếp tục các hoạt động duy trì chủ quyền của mình với Hoàng Sa,
Trường Sa thân yêu, dù một phần máu thịt ấy đang bị Trung Quốc chiếm đóng bất
hợp pháp. Các hoạt động khẳng định và thực thi chủ quyền ấy bao gồm đủ cả yếu
tố vật chất, lẫn tinh thần, là hai yếu tố cần và đủ trong Công pháp quốc tế.
Và vì thế, không có
chuyện là chủ quyền của chúng ta sẽ bị mất, mà ngược lại, hành động xâm chiếm
bất hợp pháp bằng vũ lực thì sẽ mãi mãi không được công nhận chủ quyền cho dù
bên xâm chiếm đang kiểm soát phần lãnh thổ đó.
Ðối với việc kiện đòi
lại Hoàng Sa và một phần Trường Sa, theo quy định của luật pháp quốc tế, để
giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, tòa án quốc tế bao gồm Tòa Trọng
tài thường trực (PCA) và Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) chỉ có thẩm quyền xét xử nếu
tất cả các bên đồng thuận trong việc đưa tranh chấp ra tòa án để giải quyết, mà
Trung Quốc thì luôn luôn từ chối việc đưa ra tòa án xét xử. Chính vì vậy, việc
khởi kiện về chủ quyền chưa thể thực hiện được.
Từ những phân tích
trên cho thấy, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng pháp lý, lịch sử để khẳng định chủ
quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; đồng thời, Việt Nam
là quốc gia duy nhất đã chiếm hữu thật sự và quản lý hai quần đảo này một cách
liên tục, hòa bình, phù hợp các quy định của luật pháp quốc tế./.
Đăng nhận xét