Tự do ngôn luận, tự do báo chí tại Việt Nam
Trong thời gian qua, các thế lực thù địch, các phần tử chống đối thường xuyên đưa ra các luận điệu cho rằng Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam bị bóp nghẹt, và rằng Luật An ninh mạng được Quốc hội thông qua là công cụ để chính quyền ngăn chặn quyền được nói, quyền được bày tỏ chính kiến của người dân trên mạng Internet. Vậy có thật Nhà nước ta cấm đoán hay hạn chế quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí hay không?
Tại Điều 25-Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”.
Tại Điều 11-Luật báo chí có quy định về Quyền tự do ngôn luận trên báo chí, công dân có quyền: “Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, ...”.
Điều 25 quy định “Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm cung cấp cho nhà báo những tư liệu, tài liệu không thuộc phạm vi bí mật nhà nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác theo quy định của pháp luật”; Điều 13 quy định “Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”.
Với những quy định trên có thể thấy rằng tại Việt Nam mỗi nhà báo, phóng viên hay mọi người dân hoàn toàn có hành lang pháp lý để tự do bày tỏ chính kiến, quan điểm của mình và những quyền này được pháp luật bảo hộ và có hình phạt nghiêm khắc với những ai xâm phạm các quyền trên. Điều 167 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác cản trở công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm”. Đối với khoản 2 (có tình tiết tăng nặng) “phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.
Trên thực tế, tại Việt Nam hiện có 900 cơ quan báo chí in, 135 cơ quan báo điện tử, 258 trang thông tin điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí, 67 đài phát thanh truyền hình, 54 nhà cung cấp các dịch vụ truyền thông, không chỉ cư dân Việt Nam mà cư dân nước ngoài sinh sống, làm việc ở Việt Nam có đầy đủ thông tin từ 75 kênh truyền hình nước ngoài, trong đó có các kênh lớn như CNN, BBC, TV5, Australia Network,... có hơn 20 cơ quan báo chí nước ngoài có phóng viên thường trú tại Việt Nam, nhiều báo, tạp chí in bằng nhiều thứ tiếng nước ngoài được phát hành rộng rãi. Qua Internet, người dân Việt Nam được tiếp cận tin tức của các cơ quan thông tấn, báo chí lớn trên thế giới như AFP, BBC, VOA, Reuter... 58 triệu người dùng facebook, đứng thứ 7, chỉ sau một số nước như Ấn Độ, Mỹ, Inđônêxia, Philippine...
Những con số trên cho thấy: Việt Nam không chỉ là quốc gia mà tự do ngôn luận, tự do báo chí được bảo đảm mà còn là quốc gia đứng hàng đầu trên thế giới về việc thực hiện các quyền trên. Đảng và Nhà nước không chỉ được bảo đảm quyền tự do ngôn luận, báo chí mà còn được xem là một động lực phát triển của xã hội, khuyến khích báo giới tham gia đấu tranh chống tham nhũng. Các cuộc tranh luận, chất vấn, phản biện về chủ trương, chính sách tại Quốc hội, các cuộc toạ đàm, tranh luận, các thông tin đa chiều trên phương tiện thông tin đại chúng về mọi vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, với sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị, xã hội và người dân là thực tiễn diễn ra hàng ngày trong đời sống của người dân Việt Nam.

Luật pháp quốc tế và các nước quy định thế nào về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí:
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị được Liên hợp quốc thông quan năm 1966 mà Việt Nam là một thành viên có quy định rất rõ tại Điều 19: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận”. Tuy nhiên việc thực hiện  quyền này “kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt”, “phải chịu một số hạn chế nhất định”, quy định trong pháp luật để: “Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội”.
Đối với các quốc gia trên thế giới, nhất là các nước phát triển thì quyền tự do ngôn luận có bị hạn chế hay không? Điều 5 Hiến pháp nước Đức quy định: “Mọi người có quyền thể hiện quan điểm qua hình ảnh, lời nói, bài viết trên sách báo, hay phát tán qua phát thanh truyền hình”. Tuy nhiên, Điều 18 Hiến pháp nước này cũng nhấn mạnh : “Ai lợi dụng cac quyền tự do ngôn luận, đặc biệt là quyền tự do báo chí, tự do tuyên truyền làm công cụ chống lại trật tự xã hội, tự do dân chủ sẽ bị tước bỏ quyền công dân”.
Ngay ở nước Mỹ, nơi được coi là đất nước của tự do, điều 2358 Bộ Luật hình sự Mỹ đã nghiêm cấm “In ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết hoặc in nào có nội dung vận động, xúi giục hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự cần thiết tham vọng hoặc tính đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực hoặc bạo lực”.
Hiện nay 138 quốc gia (trong đó có 95 nước đang phát triển) đã ban hành Luật An ninh mạng. Trong đó đều có có những điều, khoản cụ thể đối với người sử dụng mạng Internet như cấm các hành vi xâm phạm An ninh quốc gia, cấm xúi giục hành vi phạm tội...
Thực tế cho thấy luật pháp quốc tế hay bất kỳ một quốc gia nào, khi quy định về tự do ngôn luận, tự do báo chí cũng phải đặt trong khuôn khổ do luật định, điều đó là tất yếu để bảo đảm các quyền tự do đó không xâm phạm lợi ích hợp pháp của xã hội, nhà nước, của người dân.
Cũng như các pháp luật khác trên thế giới Việt Nam đề ra những quy định để ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, của công dân, 06 nhóm hành vi bị cấm trong Luật an ninh mạng đều là những hành vi: sử dụng không gian mạng để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội như kích động gây rối, bạo loạn, hoạt động tội phạm, tệ nạn xã hội, xuyên tạc, vu khống, các hành vi tấn công mạng trái phép...Đó là những hành vi không chỉ đáng bị lên án mà còn cần thiết phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Đây cũng hoàn toàn là lẽ đương nhiên, rất phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế./.
Đ.T


Đăng nhận xét

 
Top