Sự xâm nhập ồ ạt, khó kiểm soát của những luồng văn hóa ngoại lai diễn ra trên hầu hết các khía cạnh của đời sống văn hóa đã và đang dẫn đến nhiều nguy cơ đe dọa việc kế thừa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Xâm nhập văn hóa trên diện rộng
"Soi" vào lĩnh vực điện ảnh - truyền hình mới thấy, phim nước ngoài lấn át phim trong nước thế nào. Ngồi trước màn ảnh ti-vi vào những "giờ vàng", đếm sơ sơ cũng đã có tới không dưới mười kênh phát sóng những bộ phim truyền hình nước ngoài, nhất là phim Hàn Quốc, Trung Quốc. Trong khi đó, chỉ hiếm hoi một số kênh dành "đất" cho phim Việt mà nếu chú ý cũng chỉ "bói" ra vài phim mới, còn hầu như là phim cũ phát lại. Sự lấn át của làn sóng truyền hình Hàn Quốc, Trung Quốc có thể không chỉ vì đây là các quốc gia có nền công nghiệp điện ảnh phát triển mạnh, đáp ứng nhu cầu giải trí của công chúng Việt, mà nguyên nhân lớn hơn là do thị trường phim của ta đã tự đẩy mình vào thế yếu. Thu hút khán giả sao được khi một đất nước có tới hơn 86 triệu dân mà trung bình mỗi năm chỉ cho ra trung bình hơn chục bộ phim truyền hình? Năm 2010, đứng trước sự bùng nổ của phim nước ngoài trên sóng truyền hình, Chính phủ đã ban hành Nghị định 54/2010/NÐ-CP quy định thời lượng phát sóng phim Việt Nam của mỗi đài truyền hình phải bảo đảm ít nhất 30% tổng thời lượng phát sóng phim. Tuy nhiên, đến nay, mới chỉ có ba "đàn anh" mạnh hơn về kinh tế là VTV, HTV và Ðài Truyền hình Bình Dương có được định mức này nhờ khả năng liên kết tự sản xuất phim, còn hơn 60 đài truyền hình địa phương vẫn trong tình trạng "sính" dùng hàng ngoại vì "lực bất tòng tâm", bởi không thể tự sản xuất phim truyền hình để lấp sóng, cũng không có kinh phí dồi dào để mua phim nội với giá vài trăm triệu đồng một tập. Trong khi đó, mua phim nước ngoài vừa bảo đảm lợi nhuận, vừa phục vụ được số đông. Ðã thế, bấy lâu nay phạm luật cũng đâu có cơ quan chức năng nào "sờ gáy" xử phạt. Bên cạnh đó, việc tuân thủ cam kết khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) với quy định nhập phim không hạn ngạch đã khiến việc điều tiết nguồn phim nhập trở nên khó định lượng và kiểm soát. Sự du nhập ồ ạt của phim nước ngoài khiến các bộ phim điện ảnh nghệ thuật trong nước khó vào rạp, khó có cơ hội để tiếp cận công chúng. Thay vào đó, để cạnh tranh, các hãng phim tư nhân Việt Nam có xu hướng chạy theo thị hiếu đám đông bằng cách tung ra những bộ phim nặng về tính giải trí thương mại mà ít giá trị nghệ thuật. Ðiều này vô hình trung đã tạo nên một diện mạo có phần mờ nhạt của nền điện ảnh nước nhà, và hệ quả là công chúng vẫn "sốt" với phim nước ngoài mà "lạnh" với phim Việt.
Ðiện ảnh - truyền hình đã thế, lĩnh vực âm nhạc cũng không thể tránh khỏi nạn du nhập ồ ạt, thiếu chọn lọc. Trong khi vốn âm nhạc dân gian truyền thống của Việt Nam chỉ có dịp để phô bày tinh hoa trong những đợt liên hoan, hội diễn âm nhạc thế giới hay những đợt giao lưu văn hóa cấp quốc gia; trong khi những ca khúc tiếng Việt gần như không có cơ hội để quảng bá đến bạn bè quốc tế; thì âm nhạc quốc tế đã xuất hiện dày đặc trong những chương trình giới thiệu âm nhạc trên sóng phát thanh, truyền hình và các website chuyên về âm nhạc. Những ca khúc quốc tế kinh điển có giai điệu hay, ca từ đẹp đi vào lòng công chúng Việt Nam là điều dễ hiểu, song có một điểm lạ là ngay cả những bài hát chẳng mấy hấp dẫn về ca từ, tiêu biểu là dòng nhạc Hàn Quốc đang "làm mưa làm gió" trên mạng in-tơ-nét cũng đủ sức đốt nóng sự hâm mộ của các bạn trẻ Việt Nam, đặc biệt là độ tuổi teen. Nhạc Hàn Quốc không có nhiều sự đầu tư về giai điệu, hơn nữa, nếu dịch cặn kẽ lời ca khúc Hàn, có lẽ nhiều bạn trẻ Việt Nam còn thất vọng vì sự giản đơn về ý nghĩa ngôn từ. Nhưng bất chấp điều đó, những nhóm nhạc thần tượng Hàn Quốc như SNSD, Big Bang, 2PM... vẫn gây "sốt" giới trẻ Việt bởi những vũ điệu đẹp mắt, đồng đều và ngoại hình trẻ trung, bắt mắt - thứ mà âm nhạc chính thống Việt Nam còn chưa tạo được thế mạnh. Chính điều này đã cổ súy cho xu hướng coi trọng yếu tố "nhìn" nhiều hơn "nghe", coi trọng tính giải trí hơn tính nghệ thuật trong cách cảm thụ âm nhạc của giới trẻ. Và đây cũng là nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của một bộ phận ca sĩ trẻ Việt Nam tài năng thì chẳng mấy nhưng lúc nào cũng muốn nổi như "sao" với những bài hát "nhạc chợ" nhảm nhí, với những trang phục lộ dưới hở trên, những phát ngôn gây sốc và cả những xì-căng-đan tình ái. Chính sự du nhập ồ ạt của âm nhạc quốc tế vào thị trường Việt Nam đã phần nào làm méo mó đời sống âm nhạc trong nước, tạo nên lớp váng mầu mè bắt mắt của giới showbiz Việt mà ẩn phía dưới biết bao là sạn.
Ngay cả trong lĩnh vực văn hóa đọc, cũng diễn ra tình trạng xâm nhập một cách mạnh mẽ. Ði tới hiệu sách nào, trên các kệ tủ cũng ngập tràn các loại sách văn học dịch. Tác phẩm văn học mới của Việt Nam còn ít, chủ yếu là những sách cũ được tái bản lại. Thời gian, chất xám bỏ ra nhiều, chi phí in sách tốn kém nhưng lợi nhuận thu về chẳng là bao cho nên không nhiều NXB Việt Nam mặn mà với việc xuất bản sách văn học. Văn học "nội" ít nên văn học "nhập" nhiều là điều dễ hiểu. Song điều đáng nói là ngay cả những cuốn truyện có nội dung khiêu dâm hay kích động bạo lực, không phù hợp lối sống và tâm lý tiếp nhận của người Việt Nam cũng được bày bán công khai tại một số nơi. Ðáng kể nhất phải nói tới nạn thâm nhập trong lĩnh vực truyện tranh, khi mà có tới hơn 90% thị trường truyện tranh được bày bán là truyện dịch từ nước ngoài, nhiều nhất là Nhật Bản, trong đó có những truyện như Cậu bé Bút chì hay Thủy thủ Mặt trăng là những tác phẩm có nhiều hình ảnh ám thị về "sex" cũng vẫn vượt rào kiểm soát và được một nhà xuất bản ở nước ta cho in, phổ biến rộng rãi một thời gian dài. Bên cạnh đó, văn học Việt Nam cũng không có nhiều cơ hội để tiếp cận bạn đọc thế giới bởi những phần giới thiệu tác phẩm trên web hầu như chỉ được viết bằng tiếng Việt, gây khó khăn cho việc tiếp cận tìm hiểu của những nhà xuất bản quốc tế. Số lượng những tác phẩm văn học Việt Nam được dịch và phát hành trên thị trường quốc tế chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Sự lép vế của dòng văn học trong nước, sự gia tăng ồ ạt của dòng văn học dịch với nhiều tác phẩm chưa qua kiểm duyệt kỹ lưỡng hơn lúc nào hết đã tạo nên nguy cơ mai một sự trong sáng của tiếng Việt, kích thích lối sống thực dụng, sống gấp, thích hưởng thụ hơn lao động của một bộ phận giới trẻ nước ta.
Nguy cơ mai một giá trị văn hóa dân tộc
Không khó để nhận ra những biểu hiện văn hóa nước ngoài xâm nhập hầu hết các mảng của đời sống văn hóa tinh thần nước ta, song hoàn toàn không dễ để nhìn thấy hay đoán biết trước những hậu quả khó lường mà vấn nạn này mang lại. Trước tiên, phải khẳng định, khi đất nước mở cửa, cùng với sự đi lên về kinh tế, tất yếu cần đến sự giao lưu, hội nhập về văn hóa. Sự tiếp nhận, ảnh hưởng văn hóa qua lại giữa các quốc gia không chỉ giúp thắt chặt thêm mối quan hệ đối ngoại mà còn làm tăng cường vốn hiểu biết, làm phong phú hơn đời sống văn hóa tinh thần của công dân mỗi nước. Tuy nhiên, sự du nhập văn hóa một cách quá đà, thiếu chọn lọc đến mức đẩy cán cân văn hóa vào thế "nhập siêu" lại sẽ là "lợi bất cập hại". Tình trạng này không chỉ gây ra tâm lý "sùng ngoại" mà còn làm giảm khả năng được tiếp cận công chúng của những sản phẩm văn hóa truyền thống trong nước. Thế nên mới có chuyện, những người trẻ có thể chẳng mấy hào hứng khi được giao lưu, trò chuyện cùng những nghệ sĩ có nhiều đóng góp cho nền nghệ thuật nước nhà, nhưng lại sẵn sàng hôn lên chiếc ghế mà thần tượng của họ là một ca sĩ nước ngoài vừa ngồi. Và trong khi chương trình biểu diễn nghệ thuật của các rạp hát, nhà hát phải chật vật lắm mới tìm được khán giả thì một show diễn của ban nhạc thần tượng Hàn Quốc có giá tới vài triệu đồng/vé lại hút một số lượng lớn người tới xem, thậm chí phải huy động đến cả lực lượng cảnh sát giữ trật tự. Hay trong một cuộc thi tìm kiếm giọng hát xuất sắc ở nước ta gần đây, hầu hết các thí sinh tham dự đều tự chọn hoặc được giám đốc âm nhạc, huấn luyện viên chỉ định lựa chọn các ca khúc nước ngoài để thể hiện thay vì hát bằng tiếng mẹ đẻ bởi cho rằng như thế mới xứng tầm với "đẳng cấp" cuộc thi... Người ta vẫn hay lo ngại về sự mai một của nghệ thuật văn hóa truyền thống, sự xuống cấp của những giá trị đạo đức, và những biểu hiện lệch lạc trong lối sống có phần thờ ơ, gấp gáp, đòi hỏi hưởng thụ, ưa bạo lực của một bộ phận trong giới trẻ... Một phần câu trả lời nằm ở chính việc du nhập một cách tràn lan, thiếu kiểm soát những luồng văn hóa ngoại lai, độc hại. Có lẽ, hậu quả của sự du nhập ồ ạt văn hóa nước ngoài ở Việt Nam mang lại đã không còn tồn tại ở dạng nguy cơ nữa mà thật sự trở thành biểu hiện của sự thâm hụt văn hóa đáng sợ. Nếu không được điều chỉnh kịp thời, sự thâm hụt ấy chẳng mấy chốc sẽ biến thành "xâm lăng văn hóa", làm mất đi bản sắc dân tộc, gây tác hại xấu đến những thế hệ tiếp nối mà chúng ta đang ra sức vun đắp và kỳ vọng.
Ðã đến lúc, sự du nhập văn hóa vào nước ta cần phải được lập lại trật tự. Vấn đề đặt ra là phải ứng xử với những luồng văn hóa du nhập như thế nào để vừa tiếp thu được tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa bảo tồn và phát huy được những giá trị văn hóa dân tộc. Ði tìm lời giải cho câu hỏi này, trách nhiệm trước tiên thuộc về cơ quan quản lý cao nhất về văn hóa. Thiết nghĩ, đứng trước dòng chảy văn hóa quốc tế đa dạng, những nhà quản lý văn hóa cần giữ thái độ cởi mở, chủ động, không quá khắt khe với những giá trị văn hóa mới, nhưng cần có tầm nhìn chiến lược, xác định được cả những ý nghĩa tích cực cũng như lường trước được những hệ quả tiêu cực trước khi tiếp nhận. Muốn làm được điều đó, bản thân những người nắm giữ vị trí quản lý vĩ mô về văn hóa cả nước cần phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, biết yêu và trân trọng những giá trị văn hóa của dân tộc, có hoạch định lâu dài về việc xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc.
Thời gian qua, bất chấp luật, nhiều nhà đài vẫn vi phạm thời lượng phát sóng phim Việt, nhiều cuốn sách có nội dung không phù hợp vẫn được bày bán, nạn băng đĩa lậu vẫn hoành hành thị trường mà chưa được xử lý triệt để, ấy là bởi chế tài xử phạt của ta chưa đủ mạnh. Chính vì thế, một trong những biện pháp hiệu quả để hạn chế sự xâm lấn của những sản phẩm văn hóa ngoại lai độc hại là sự vào cuộc quyết liệt của các đơn vị kiểm duyệt văn hóa, xử lý những hành vi lợi dụng "mở cửa, giao lưu, hội nhập" để làm ngơ hoặc tiếp tay cho sự du nhập những sản phẩm văn hóa nước ngoài không tốt, làm phương hại đến bản sắc văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý văn hóa cũng cần có biện pháp, chính sách hỗ trợ, khuyến khích sự phát triển của những sản phẩm văn hóa giàu giá trị nghệ thuật trong nước, tạo điều kiện để những sản phẩm này đến được với công chúng, mang lại giá trị văn hóa đích thực cho người hưởng thụ và giá trị kinh tế xứng đáng cho người sản xuất. Ðược biết, với mong muốn tạo ra nhiều sản phẩm văn hóa, nghệ thuật trong nước giàu giá trị và thúc đẩy khả năng sáng tác, cống hiến của các nghệ sĩ nước nhà, thời gian qua, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã dành quỹ hỗ trợ và đặt hàng sáng tác tác phẩm đối với các lĩnh vực: điện ảnh, sân khấu, văn học, mỹ thuật, nhiếp ảnh, ca múa nhạc. Tuy nhiên, chưa có sự đầu tư kinh phí đúng mức cho khâu quảng bá nên có nhiều tác phẩm đã thành hình mà không có dịp được ra mắt khán giả hoặc chỉ được trình chiếu, biểu diễn một vài lần là xong. Vì thế, bên cạnh quỹ hỗ trợ sáng tác, để những món ăn văn hóa thật sự được công chúng yêu mến và đón nhận, Nhà nước cũng nên có một quỹ riêng dành cho công tác xúc tiến, giới thiệu, truyền thông các sản phẩm văn hóa tới công chúng cả nước.
Hội nhập văn hóa không phải sự tiếp nhận một chiều những giá trị văn hóa quốc tế mà còn là sự quảng bá những nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc tới bạn bè thế giới. Do đó, cơ quan quản lý văn hóa cũng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác biên dịch, dịch thuật, xây dựng được chiến lược quảng bá văn hóa dài hơi, tích cực tham gia những hoạt động giao lưu văn hóa quốc tế, tạo ra nhiều tua du lịch hấp dẫn dành cho khách nước ngoài để giới thiệu về văn hóa Việt Nam. Ngoài ra, muốn đẩy lùi nạn văn hóa nước ngoài xâm nhập ồ ạt, thiếu chọn lọc trong thời kỳ "thế giới phẳng", khi mà mọi thông tin đều có thể tìm kiếm chỉ qua vài lần nhấp chuột, không cách gì khác là những chủ thể tiếp nhận phải thật tỉnh táo, thận trọng trước những giá trị văn hóa du nhập. Muốn thế, công tác giáo dục nhằm nâng cao thị hiếu thưởng thức văn hóa nghệ thuật trong công chúng cũng như giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc cho học sinh ngay từ cấp mẫu giáo, tiểu học là điều vô cùng quan trọng. Tất nhiên, việc đẩy lùi tình trạng văn hóa nước ngoài xâm nhập ồ ạt, thiếu chọn lọc ở Việt Nam không phải là chuyện một sớm một chiều, nhưng cũng sẽ không quá nan giải nếu như các nhà quản lý có chiến lược dài hơi, đúng hướng, đồng bộ và đáp ứng được nhu cầu văn hóa - tinh thần của công chúng.
NT40
Đăng nhận xét