Để bảo đảm quyền tự do báo chí của mọi công dân, Quốc hội Việt Nam đã ban hành nhiều đạo luật quan trọng như: Luật Báo chí, Luật An ninh mạng, Luật Xuất bản… và Chính phủ cũng đã ban hành rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho báo chí Việt Nam phát triển, cụ thể:
- Điều 10 quy định công
dân có quyền:
1. Sáng tạo tác phẩm báo
chí.
2. Cung cấp thông tin
cho báo chí.
3. Phản hồi thông tin
trên báo chí.
4. Tiếp cận thông tin
báo chí.
5. Liên kết với cơ quan
báo chí thực hiện sản phẩm báo chí.
6. In, phát hành báo in.
Điều 11 của Luật Báo chí
cũng quy định công dân có quyền:
1. Phát biểu ý kiến về
tình hình đất nước và thế giới.
2. Tham gia ý kiến xây
dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước.
3. Góp ý kiến, phê bình,
kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp,
tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác.
- Điều
13, Luật Báo chí quy định:
1.
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền
tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình.
2.
Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ.
Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí
để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công
dân. 3. Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng.
Cùng
với tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự
do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình, Luật
Báo chí cũng quy định rõ trách nhiệm, chính sách của Nhà nước về phát triển báo
chí, trong đó khẳng định Nhà nước “có chiến lược quy hoạch phát triển và quản
lý hệ thống báo chí”, đồng thời “xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí”.
Điều
13, Luật Báo chí quy định trách nhiệm của Nhà nước đối với quyền tự do báo chí,
quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân.
Như
vậy, có thể khẳng định ở Việt Nam quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí đã được
bảo đảm bằng hệ thống pháp luật chặt chẽ, rõ ràng và công khai, minh bạch. Trên
thế giới không phải nước nào cũng làm được như Việt Nam.
Trên
địa bàn cả nước hiện có 868 cơ quan báo chí, 72 đài phát thanh, truyền hình và
thông tin điện tử.
Báo
chí Việt Nam là nơi để công dân Việt Nam và cả bạn bè quốc tế bày tỏ tâm tư,
nguyện vọng với Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Báo chí Việt Nam còn là kênh phản biện quan trọng về những chủ trương
chính sách kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước. Thực
tế, thời gian qua nhiều vấn đề quan trọng của đất nước, qua sự phản biện của
báo chí đã giúp cho các cơ quan của Nhà nước thay đổi, điều chỉnh chính sách,
thận trọng trước khi đưa ra những chủ trương, giải pháp, quyết sách lớn… Điểm
qua vài nét như vậy đã đủ thấy bức tranh sinh động về tự do báo chí ở Việt Nam.
Tuy
nhiên, thời gian gần đây Tổ chức phóng viên không biên giới công bố chỉ số “Tự
do Báo chí thế giới năm 2022”, trong đó xếp Việt Nam ở vị trí 175/180 quốc gia
trên thế giới. Tổ chức này còn cho rằng, Việt Nam là “một trong 10 quốc gia có
tự do báo chí kém nhất thế giới”. Nhưng sự thật tự do báo chí ở Việt Nam đã bác
bỏ mọi luận điệu bóp méo, xuyên tạc, vu cáo của tổ chức này. Họ chưa hề đến
Việt Nam và chưa hiểu những đóng góp to lớn của báo chí Việt Nam đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; họ chưa biết rằng, Việt Nam đã trở thành
quốc gia hàng đầu trong khu vực. Tất cả những thông tin của họ chỉ là “vơ bèo
vặt tép”, cóp nhặt vô căn cứ. Những thành tựu về nhân quyền nói chung và tự do
báo chí nói riêng của Việt Nam đã được thế giới ghi nhận và đáng giá cao... Đây
là minh chứng rõ ràng bác bỏ mọi luận điệu bóp méo, xuyên tạc theo kiểu “nghe
hơi nồi chõ” của Tổ chức phóng viên không biên giới./.
Đăng nhận xét